Quyen-04


LƯƠNG HOÀNG SÁM QUYỂN 04
 



TỪ BI ÐẠO TRÀNG
SÁM PHÁP
Hiệu Chính: HT. THÍCH TRÍ TỊNH
Dịch Giả: HT. THÍCH VIÊN GIÁC
QUYỂN THỨ TƯ
— ----—
QUYỂN 04


CHƯƠNG THỨ BẢY
NÓI RÕ QUẢ BÁO
(Tiếp Theo)
Ngày nay đại chúng đồng nghiệp
trong đạo tràng lại phải chí thành đảnh
lễ, nhất tâm lắng nghe.
Lúc bấy giờ, Phật ở thành Vương Xá,
trong vườn trúc Ca Lan Đà, ngài Mục
Kiền Liên từ thiền định đứng dậy đi dạo
trên bờ sông Hằng thấy các Ngạ quỹ chịu
tội không đồng nhau.
Khi ấy các Ngạ quỷ đồng sinh lòng
cung kính đến hỏi ngài Mục Liên về nhân
duyên đời trước. Một Ngạ quỷ hỏi rằng:
“Tôi một đời lại đây, thường bị đói khát,
muốn vào nhà xí, lấy phẩn mà ăn; trên
nhà xí đã có con đại lực quỷ lấy gậy đánh
tôi; tôi không đến gần nhà xí được. Vì cớ
gì mà tôi mắc phải tội ấy?”
Ngài Mục Liên đáp rằng: “Đời trước
lúc làm người, ngươi làm chủ chùa, có
khách Tỳ kheo đến xin ăn. Ngươi keo kiết
không đãi khách ăn. Chờ khách đi rồi
ngươi mới cho các thầy thường ở trong
chùa ăn.
Vì ngươi vô đạo, tham tiếc của
chúng; do nhân duyên ấy nên mắc phải
tội như vậy. Đó là hoa báo, quả báo sẽ ở
địa ngục”.
- Lại có một Ngạ quỷ hỏi ngài Mục
Liên rằng: “Tôi một đời lại đây, trên vai có
cái bình đồng lớn, đựng đầy nước sôi. Tôi
tự lấy gáo múc xối từ trên đầu xuống, đau
khổ vô cùng, không thể chịu được. Tôi vì
tội gì mà phải như thế?”
Ngài Mục Liên đáp rằng: “Lúc làm
người, ngươi làm Duy na trong chùa, xem
việc trong đại chúng. Có một bình sữa,
ngươi giấu chỗ kín, đúng giờ không đem
chia cho chúng, đợi khách đi rồi, mới đem
chia cho các người trong chùa. Sữa là vật
chiêu đề, thuộc của chúng Tăng trong
mười phương, mọi người đều có phần; vì
ngươi vô đạo, tham tiếc của chúng. Do
nhân duyên ấy, nên mắc phải tội như vậy.
Đó là hoa báo, quả báo sẽ ở địa ngục”.
- Lại có một Ngạ quỷ hỏi ngài Mục
Liên rằng: “Tôi một đời trở lại đây,
thường nuốt những hoàn sắt nóng. Vì
những tội gì mà phải như vậy?”
Ngài Mục Liên đáp rằng: “Lúc làm
người, ngươi làm một vị Sa di nhỏ, lấy
nước trong sạch quấy đường phèn cho
chúng. Đường phèn cứng rắn, ngươi sinh
tâm trộm cắp, đập nhỏ lấy chút ít. Đại
chúng chưa uống, ngươi đã uống trộm
trước một hớp. Do vì nhân duyên ấy nên
mắc phải tội như vậy. Đó là hoa báo, quả
báo sẽ ở địa ngục”.
Ngày nay đại chúng đồng nghiệp
trong đạo tràng nghe những việc ngài
Mục Liên đã nghe đã thấy, rất đáng sợ
hãi.
Chúng con có thể làm những tội ấy.
Vì vô minh ngăn che chúng con không tự
nhớ biết. Giả sử như chúng con đã tạo vô
lượng tội nghiệp như vậy, đời sau quyết
phải thọ lãnh quả báo đau khổ ấy. Vậy
nên bây giờ phải chí tâm tha thiết, đầu
thành đảnh lễ hổ thẹn cầu xin sám hối.
Nguyện trừ diệt sạch những tội lỗi ấy và
nguyện xin sám hối thế cho hết thảy Ngạ
quỷ khắp mười phương tận hư không giới.
Lại nguyện xin sám hối thế cho các
cha mẹ và các sư trưởng, nguyện xin sám
hối thế cho các bậc đồng đàn tôn chứng,
thượng trung hạ tòa.
Nguyện xin sám hối thế cho tất cả
thiện ác tri thức, rộng ra cho đến khắp cả
mười phương tận không giới, vô cùng vô
tận hết thảy chúng sanh trong tứ sinh lục
đạo.
Những tội đã làm, nhân nay sám hối
mà được trừ diệt. Những tội chưa làm thề
không dám làm.
Nguyện xin mười phương chư Phật
chứng biết cho chúng con.
Nam mô Di Lặc Phật.
Nam mô Thích Ca Mâu Ni Phật.
Nam mô Câu Lưu Tôn Phật.
Nam mô Câu Na Hàm Mâu Ni Phật.
Nam mô Ca Diếp Phật.
Nam mô Sư Tử Phật.
Nam mô Minh Viêm Phật.
Nam mô Mâu Ni Phật.
Nam mô Diệu Hoa Phật.
Nam mô Hoa Thị Phật.
Nam mô Thiện Túc Phật.
Nam mô Đạo Sư Phật.
Nam mô Đại Tý Phật.
Nam mô Đại Lực Phật.
Nam mô Túc Vương Phật.
Nam mô Tu Dược Phật.
Nam mô Danh Tướng Phật.
Nam mô Đại Minh Phật.
Nam mô Viêm Kiên Phật.
Nam mô Chiếu Diệu Phật.
Nam mô Nhật Tạng Phật.
Nam mô Nguyệt Thị Phật.
Nam mô Chúng Viêm Phật.
Nam mô Thiện Minh Phật.
Nam mô Vô Ưu Phật.
Nam mô Sư Tử Du Hí Bồ Tát.
Nam mô Sư tử Phấn Tấn Bồ Tát.
Nam mô Vô Biên Thân Bồ Tát.
Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát.
Nam mô Phật Đà.
Nam mô Đạt Mạ.
Nam mô Tăng Già.
Lại quy y như vậy, mười phương tận
hư không giới hết thảy Tam Bảo. Nguyện
xin Tam Bảo rũ lòng đại từ bi cứu vớt hết
thảy chúng sanh khắp mười phương hiện
đương chịu khổ trong đường Ngạ quỷ.
Lại nguyện xin cứu vớt hết thảy
chúng sanh khắp mười phương hiện
đương chịu khổ vô lượng trong đường địa
ngục; trong đường súc sinh và trong
nhân loại; làm cho các chúng sanh ấy liền
được giải thoát, đoạn ba nghiệp chướng
trừ năm sợ hãi chứng tám giải thoát,
dùng bốn hoằng thệ độ thoát chúng sanh,
đảnh lễ Thế Tôn, thưa thỉnh giáo lý vi
diệu; không rời đương xứ, sạch hết hữu
lậu, tùy tâm tự tại, dạo khắp cõi Phật,
hạnh nguyện viên mãn, chóng thành
Chánh giác.
Ngày nay đại chúng đồng nghiệp
trong đạo tràng, lại chí thành lắng lòng
mà nghe.
Lúc bấy giờ, Phật ở thành Vương Xá,
phía đông nam có một hồ nước, bao nhiêu
tiểu dãi ô uế đều chảy vào hồ ấy, hôi thối
không thể đến gần được. Có một con
trùng lớn sinh ở trong hồ ấy. Thân dài
mấy trượng; không có tay chân, quằn
quại lăn lóc, hàng ngàn người đến xem.
Ngài A Nan thấy vậy về bạch Phật. Phật và
đại chúng cùng nhau đến hồ ấy xem. Đại
chúng nghĩ rằng:
“Nay đây Đức Như Lai sẽ nói rõ đầu
đuôi việc con trùng ấy cho mọi người
nghe”.
Phật bảo đại chúng: “Sau khi đức
Phật Duy Vệ nhập Niết bàn rồi, có năm
trăm thầy Tỳ kheo đi qua một ngôi chùa.
Lúc ghé vào chùa, chủ chùa rất hoan hỷ
vui mừng, mời đại chúng ở lại để cúng
đường. Ông hết lòng thết đãi không tiếc
món gì.
Sau đó có năm trăm người đi buôn
vào biển lấy ngọc, lúc về cũng ghé lại
chùa. Các người ấy thấy năm trăm thầy
Tỳ kheo tu hành tinh tấn liền hân hoan,
phát tâm cúng dường, mới cùng nhau
nghĩ rằng: “Phước điền khó gặp, chúng ta
nên cúng dường lễ mọn”.
Mỗi người cúng một viên ngọc, cộng
được năm trăm ma ni châu, đem gởi chủ
chùa. Sau đó chủ chùa sinh tâm không
tốt, lập mưu muốn đoạt lấy một mình,
không đem ra cúng dường chúng Tăng.
Đại chúng mới hỏi: “Ngọc châu của
khách buôn bố thí nên đem ra cúng
dường đại chúng?”.
Chủ chùa đáp rằng: “Ngọc châu ấy
cúng cho ta, nếu các ngươi muốn đoạt,
thì có phẩn uế cho các ngươi. Nếu các
ngươi không đi ngay bây giờ, ta sẽ chặt
tay chân các người quăng vào hầm phẩn”.
Đại chúng nghĩ thương người ấy quá
ngu si, bèn làm thinh
bỏ đi.
Vì tội ác ấy nên nay chủ chùa kia
phải làm thân trùng này, sau sẽ vào địa
ngục chịu vô lượng đau khổ.
- Lại nữa, khi ấy Phật ở thành Vương
Xá, thấy một chúng sanh có cái lưỡi rất
dài lớn. Có đinh sắt đóng vào lưỡi, lửa
phát cháy hừng hực, chịu đau khổ suốt
ngày đêm. Ngài Mục Liên bèn hỏi Phật:
“Chúng sanh ấy vì tội gì mà chịu khổ như
vậy?”
Phật đáp:
"Người ấy xưa kia từng làm chủ chùa,
hay mắng nhiếc, xua đuổi các thầy Tỳ
kheo ở lâu trong chùa hay khách Tăng
mới đến cũng vậy mà không cho ăn uống.
Không bình đẳng cúng dường. Vì nhân
duyên ấy nên nay mắc phải tội như vậy”.
- Lại có một chúng sanh thân thể dài
lớn, trên đầu có cái vạc nước đồng sôi,
bốc lửa cháy hừng hực, nước đồng sôi
chảy tràn ra tứ phía, chảy khắp thân thể,
chúng sanh ấy nương hư không mà đi mãi
không nghỉ.
Ngài Mục Liên hỏi Phật: “Chúng
sanh ấy vì tội gì mà phải chịu khổ như
thế?”.
Phật đáp:
“Người ấy đời xưa làm Tri sự ở chùa,
Đàn việt cúng dầu thắp, Tri sự không
chia cho khách Tăng. Đợi các thầy khách
Tăng đi rồi sau đó mới chia cho các thầy
thường ở trong chùa.
Vì nhân duyên ấy nên nay người ấy
mắc phải tội như vậy”.
- Lại có một chúng sanh bị các hoàn
sắt cháy đỏ hừng hực, từ trên đầu mà vào,
từ dưới chân mà ra; nương hư không mà
đi, người ấy đau khổ vô cùng, không thể
chịu được.
Ngài Mục Liên hỏi Phật: “Chúng
sanh ấy vì tội gì mà chịu khổ như vậy?
Phật đáp rằng:
“Người ấy đời trước làm ông Sa di có
trộm bảy trái me trong vườn chúng Tăng.
Sau khi chết rồi, Sa di ấy đã chịu vô lượng
khổ trong địa ngục. Nay nghiệp báo chưa
hết, hãy còn dư ươn, nên phải chịu khổ
như vậy”.
- Lại có một con cá lớn, một thân
trăm đầu, mỗi đầu một khác, bị sa vào
lưới người.
Thế Tôn thấy vậy bèn nhập định “Từ
tâm Tam muội” gọi con cá ấy. Cá ấy tức
thời ứng khẩu trả lời.
Thế Tôn hỏi cá:
- Mẹ ngươi ở đâu?
- Mẹ tôi làm con trùng rúc trong
nhà xí!
Phật bảo các Tỳ kheo: “Lúc Phật Ca
Diếp ra đời, con cá to lớn này làm vị Tam
Tạng Tỳ kheo, vì ác khẩu nên chịu quả
báo nhiều đầu. Mẹ nó bấy giờ thọ hưởng
lợi dưỡng của nó, nên đọa làm con trùng
rúc trong cầu tiêu”.
Phật dạy tiếp rằng: “Mắc phải báo ấy
đều do chúng sanh ác khẩu, nói lời thô
tháo cứng xẵng, tuyên truyền bỉ thử, làm
cho hai bên tranh đấu loạn lạc lẫn nhau.
Chết rồi vào địa ngục, bị ngục tốt đốt đỏ
cái bể sắt trong ngoài nóng đỏ như nước
đồng sôi để nung cái lưỡi người có tội.
Quỷ lại đốt đỏ móc sắt, móc có ba lưỡi sắt
bén như mũi nhọn để đoạn cái lưỡi của
tội nhân. Lại kéo dài cái lưỡi ra như trâu
kéo cày.
Lại đốt đỏ cái chày sắt dộng vào yết
hầu, trải qua ngàn vạn kiếp. Tội hết mới
ra khỏi địa ngục, làm loài chim muông”.
Phật dạy: “Nếu có chúng sanh nào
đàm luận việc vua chúa, chánh trị, cha
mẹ và sư trưởng, thì tội lại còn nặng hơn”.
Ngày nay đại chúng đồng nghiệp
trong đạo tràng nghe Phật dạy lời ấy, rất
đáng sợ hãi. Bấy giờ đại chúng đã thấy rõ
ràng: Thiện ác hai đường không sai, tội
phước và quả báo chắc thật, quyết định
không còn nghi ngờ gì nữa.
Vậy nên hết lòng hổ thẹn, siêng
năng tu hành, cầu xin sám hối. Đại chúng
đã cùng nhau xem kinh, đã đồng thấy
những việc như trên, nếu không cố gắng,
lười biếng muốn thối lui thì việc tu hành
không do đâu có kết quả.
Ví như người nghèo thiếu, lòng thèm
khát các vị cao lương mà thực tế không
có một vị nào thì rốt cuộc cũng không có
ích gì cho sự thèm khát khổ não kia.
Cho nên biết rằng: Người nào muốn
cầu có pháp môn nhiệm mầu thù thắng,
muốn độ thoát hết thảy chúng sanh,
người ấy không thể nói suông rằng: Tôi
chỉ tu tâm mà được. Người ấy cần phải có
tâm mà cũng cần phải thực hành bằng sự
tướng nữa mới được. Cần phải có sự có lý.
Sự lý đi đôi công việc mới có kết quả
hoàn toàn, thành tựu viên mãn.
Vậy nên đại chúng phải nỗ lực tinh
tấn tu hành cầu xin sám hối. Cùng nhau
chí tâm tha thiết, đầu thành đảnh lễ Tam
Bảo.
Nguyện xin thay thế hết thảy chúng
sanh trong đường địa ngục, đường ngạ
quỷ, đường súc sinh và đường nhân loại
mà cầu xin sám hối.
Lại nguyện vì cha mẹ, sư trưởng,
thiện ác tri thức và cùng hết thảy bà con
mà cầu xin sám hối. Những tội đã làm rồi
nguyện xin trừ diệt. Những tội chưa làm
thề không dám làm.
Nhất tâm đảnh lễ quy y Thế gian Đại
Từ Bi Phụ:
Nam mô Di Lặc Phật.
Nam mô Thích Ca Mâu Ni Phật.
Nam mô Đề Sa Phật.
Nam mô Minh Diệu Phật.
Nam mô Trì Man Phật.
Nam mô Công Đức Minh Phật.
Nam mô Thị Nghĩa Phật.
Nam mô Đăng Diệu Phật.
Nam mô Hưng Thịnh Phật.
Nam mô Dược Sư Phật.
Nam mô Thiện Nhu Phật.
Nam mô Bạch Hào Phật.
Nam mô Kiên Cố Phật.
Nam mô Phước Oai Đức Phật.
Nam mô Bất Khả Hoại Phật.
Nam mô Đức Tướng Phật.
Nam mô La Hầu Phật.
Nam mô Chúng Chủ Phật.
Nam mô Phạm Thanh Phật.
Nam mô Kiên Tế Phật.
Nam mô Bất Cao Phật.
Nam mô Tác Minh Phật.
Nam mô Đại Sơn Phật.
Nam mô Kim Cang Phật.
Nam mô Tương Chúng Phật.
Nam mô Vô Úy Phật.
Nam mô Chân Bảo Phật.
Nam mô Sư Tử Phan Bồ Tát.
Nam mô Sư Tử Tác Bồ Tát.
Nam mô Vô Biên Thân Bồ Tát.
Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát.
Lại quy y như vậy, mười phương tận
hư không giới hết thảy Tam Bảo. Nguyện
xin Tam Bảo dùng đại từ bi lực, đại trí
huệ lực, vô lượng tự tại thần lực, không
thể tư nghị; độ thoát nhất thiết chúng
sanh lực trong lục đạo, diệt trừ hết thảy
đau khổ cho chúng sanh trong lục đạo,
khiến các chúng sanh ấy đoạn trừ hết tội
nghiệp trong ba đường ác; rốt ráo không
tạo năm tội nghịch; không tạo mười ác
nghiệp nữa. Từ nay trở đi các chúng sanh
ấy không sinh vào chỗ khổ báo, được sinh
về Tịnh độ; bỏ mạng sống khổ báo được
mạng sống trí huệ; bỏ thân khổ báo được
thân Kim cang; bỏ khổ ác thú được vui
Niết bàn; nhớ khổ trong ác thú, phát tâm
Bồ đề. Bốn vô lượng tâm, sáu ba la mật
thường được hiện tiền. Bốn vô ngại biện,
sáu sức thần thông được tự tại như ý,
dõng mãnh tinh tấn, không thôi không
nghỉ, và thắng tấn tu hành đến khi mãn
hạnh Thập địa, trở lại độ thoát hết thảy
chúng sanh.

CHƯƠNG THỨ TÁM
RA KHỎI ĐỊA NGỤC
Ngày nay đại chúng trong đồng
nghiệp đạo tràng nên biết rằng: Vạn pháp
không đồng, công dụng bất nhất, như
sáng và tối đối đãi nhau. Tuy nhiên chỉ có
thiện và ác là gồm thâu tất cả.
Làm thiện được quả báo tốt đẹp ở
các cõi trời, cõi người. Làm ác thời mắc
quả báo xấu xa, đau khổ kịch liệt trong ba
đường ác.
Đó là hai sự thật rõ ràng trên đời,
không phải giả dối. Những người ngu si
lầm lạc phần nhiều sinh tâm nghi ngờ;
hoặc cho cõi trời là chuyện bịa đặt; địa
ngục là lời nói dối, không có. Những
người ấy không biết suy nhân nghiệm
quả; không biết xét quả tìm nhân. Người
không biết phân biệt nhân quả thì cố
chấp lấy sự hiểu biết sai lầm của thế gian.
Không những chấp không, chấp có mà
còn làm thơ làm bài để biếm xích. Tâm họ
trái với điều thiện lợi mà không hề tự
biết sai lầm. Giả như có người chỉ bảo cho
thì họ càng chấp chặt lấy thiên kiến; sai
lầm còn kiên cố hơn nữa. Những người
như thế là họ tự gieo đầu vào đường ác.
Trong nháy mắt liền thẳng xuống địa
ngục, từ thân hiếu tử không thể cứu
được. Họ đi vào hầm lửa, vạc dầu trước
hơn ai hết. Họ đi thiêu thân trong lửa
nóng vạc dầu sôi mà không tự biết. Thân
tâm tan nát, tinh thần thống khổ, khi ấy
ăn năn không kịp.
Ngày nay đại chúng trong đạo tràng
thấy rõ thiện ác nương nhau như bóng
theo hình, như vang theo tiếng.
Tội phước hai đường tuy khác nhau
nhưng cũng phải đợi kỳ trả quả báo
nghiêm nhặt, mong sao mọi người đều
sáng suốt tin tưởng không sanh tâm nghi
ngờ.
Sao gọi là địa ngục?
Kinh dạy rằng:
Trong tam thiên đại thiên thế giới, ở
giữa khoảng hai núi Thiết Vi, chỗ tối tăm
nhất gọi là Địa ngục, thành bằng sắt dài
rộng một ngàn sáu trăm vạn dặm. Trong
thành chia ra tám vạn bốn ngàn ngăn.
Dưới lấy sắt làm đất, trên lấy sắt làm lưới.
Lửa đốt thành ấy trong ngoài cháy đỏ
chảy ra nước. Lửa trên cháy suốt xuống
dưới, lửa dưới cháy suốt bốc lên trên.
Tên riêng của mỗi ngục là:
Ngục nhóm họp,
Ngục tối tăm,
Ngục xe dao,
Ngục rừng kiếm,
Ngục máy sắt,
Ngục rừng gai,
Ngục võng sắt,
Ngục hang sắt,
Ngục hoàn sắt,
Ngục đá nhọn,
Ngục hầm than,
Ngục rừng cháy,
Ngục hổ lang,
Ngục kêu la,
Ngục nước sôi,
Ngục than nóng,
Ngục núi dao,
Ngục rừng kiếm,
Ngục đá mài lửa,
Ngục thành lửa,
Ngục cột trụ đồng,
Ngục giường sắt,
Ngục xe lửa,
Ngục bánh xe lửa,
Ngục uống nước đồng sôi,
Ngục khạc ra lửa,
Ngục hết sức nóng,
Ngục hết sức lạnh,
Ngục rút lưỡi,
Ngục đóng đinh vào thân,
Ngục trâu cày,
Ngục chém chặt,
Ngục đao binh,
Ngục mổ xẻ,
Ngục sông tro,
Ngục tiểu dãi trào lên,
Ngục giá lạnh,
Ngục bùn lầy,
Ngục ngu si,
Ngục khóc lóc,
Ngục đui điếc,
Ngục câm ngọng,
Ngục lưỡi câu sắt,
Ngục mỏ sắt nhọn.
Lại có những đại tiểu nê lê A tỳ địa
ngục.
Phật bảo đức A Nan:
Sao gọi là A tỳ địa ngục?
A: nghĩa là vô.
Tỳ: nghĩa là già.
A : nghĩa là vô.
Tỳ: nghĩa là cứu.
Nói chung lại: A Tỳ nghĩa là vô già,
vô cứu: không ngăn dứt, không cứu vớt
được.
Lại nữa:
A: là không gián đoạn.
Tỳ: là không lay động.
A: là hết sức nóng nhiệt.
Tỳ: là hết sức khổ não.
A: là không an nhàn.
Tỳ: là không an trú.
Tóm lại: A tỳ nghĩa là hết sức hành
hạ, không tạm nghỉ, không gián đoạn,
không lay chuyển; hết sức khổ não, như
nung như nấu, không an nhàn, không
chấm dứt, cứ hành phạt mãi mãi nên gọi
là A tỳ.
Lại nữa:
A: là đại diệm; là lửa dữ.
Tỳ: là mãnh nhiệt; là nóng dữ.
Lửa dữ nhập tâm, gọi là A tỳ địa
ngục.
Phật dạy ngài A Nan: Địa ngục A tỳ
dài rộng bằng nhau ba mươi hai vạn dặm.
Bảy lớp thành sắt, bảy lớp lưới sắt bao bọc
ngục A tỳ. Dưới có mười tám ngăn, xung
quanh có bảy lớp thành, đều có đặt rừng
dao.
Trong bảy lớp thành lại có rừng
gươm. Dưới mười tám ngăn, ngăn có tám
vạn bốn ngàn lớp. Bốn góc đều có bốn đại
đồng cẩu, thân dài lớn đến một vạn sáu
ngàn dặm (16.000), mắt như điện chớp,
răng như cây gươm, nanh như núi dao,
lưỡi như mũi sắt nhọn, toàn thân chân
lông phun lửa dữ, hơi bay như khói, hôi
thối khó chịu, thế gian không có vật gì
thối bằng.
Lại có mười tám ngục tốt đầu như
đầu La sát miệng như miệng Dạ xoa. Chó
có sáu mươi bốn con mắt, mắt tung ra xa
những hoàn sắt nóng, như xe chạy xa
mười dặm. Răng phía trên cao một trăm
sáu mươi dặm. Trên đầu răng tuôn ra lửa
dữ, đốt cháy xe sắt phía trước, làm cho
bánh xe kia mỗi lỗ lưới tròn hóa làm một
ức con dao lửa, kiếm kích sắc bén; những
lưỡi nhọn đều từ trong lửa dữ ấy lưu xuất.
Lửa ra như suối chảy đốt cháy ngục
thành A tỳ. Thành cháy đỏ như nước đồng
sôi.
Bọn ngục tốt kia đầu có tám đầu
trâu, mỗi mỗi đầu đều có mười tám cái
sừng. Trên đầu mỗi sừng tuôn ra một
đống lửa lớn. Đống lửa lớn lại hóa ra bánh
xe dao lớn. Như bao nhiêu bánh xe, mỗi
mỗi bánh xe thứ lớp theo nhau chạy
trong lửa dữ ghê gớm, đầy cả A tỳ địa
ngục.
Ở dưới đất thì có chó đại đồng cẩu há
miệng le lưỡi. Lưỡi như đòn xóc nhọn, le
ra thì hóa thành vô lượng lưỡi, đầy cả A tỳ
địa ngục.
Ở trong bảy lớp thành có bảy lớp cờ.
Ở đầu mỗi cờ, lửa tuôn ra như suối trào
vọt, nước sắt chảy đầy cả A tỳ địa ngục.
Bốn cửa thành ngục A tỳ, ở trên mỗi
ngưỡng cửa có mười tám chảo nước đồng
sôi trào ra rồi chảy tràn đầy cả thành A
tỳ.
Trong mỗi ngăn, Địa ngục lại có tám
vạn bốn ngàn rắn mãng xà sắt, phun độc,
phun lửa, thân hình lớn đầy thành, kêu la
như sấm dậy, mưa xuống những hoàn sắt
nóng lớn đầy cả thành A tỳ.
Nỗi khổ trong thành kể đến tám vạn
ức thiên. Bao nhiêu thống khổ trong
những thống khổ đều tích tụ ở trong
thành này.
Lại có năm trăm ức con trùng ở
trong thành, mỗi con trùng có tám vạn
bốn ngàn mỏ nhọn. Đầu mỗi mỏ nhọn có
lửa tuôn như mưa xối, đầy cả thành A tỳ.
Mỗi khi trùng ấy rơi xuống thì lửa
dữ trong thành A tỳ bốc ngọn lên dữ dội,
hừng hực sáng choang. Lửa mạnh ấy
chiếu đến ba trăm ba mươi sáu vạn dặm.
Từ A tỳ ngục xông lên biển cả, dưới núi ốc
tiêu, nước biển cả giọt xuống, mỗi giọt
lớn bằng trục bánh xe to, thành ra những
mũi nhọn sắt lớn, đầy cả thành A tỳ.
Phật bảo ngài A Nan: “Như chúng
sanh nào giết cha hại mẹ, nhục nhã sáu
dòng bà con, người ấy khi mạng chung
chó sắt hả miệng, hóa làm mười tám
chiếc xe, giống như xe vàng, có bảo cái
che trên. Hết thảy mũi lửa nhọn kia hóa
làm ngọc nữ. Người có tội kia xa trông
thấy, sinh tâm vui mừng. Nghĩ rằng: “Ta
muốn đến đó chơi, ta muốn đến đó chơi”.
Khi đến rồi, thì bị gió phong đao xẻ thân,
lạnh quá chừng. Tội nhân lại nghĩ: “Há
được lửa tốt, ngồi trên xe đốt lên mà hơ”.
Nghĩ như thế rồi thì liền chết. Trong giây
phút lại thấy mình ngồi trên xe vàng
ngắm xem ngọc nữ. Nhưng bị ngọc nữ
cầm búa sắt chém thân. Dưới thân lửa
bốc hừng hực, mau như chớp nhoáng,
trong nháy mắt lại rơi vào A tỳ địa ngục.
Từ ngăn trên, chớp mắt đọa xuống
ngăn dưới. Thân lớn đầy ngăn. Chó đồng
cẩu lớn tiếng sủa lên và nhai xương nuốt
tủy. Ngục tốt La sát cầm xoa sắt lớn xoa
đầu bắt đứng dậy; lửa cháy khắp thân,
cháy luôn thành A tỳ. Lưới sắt tuôn mưa
dao, dao theo lỗ chân lông vào trong thân
thể, hóa làm vua Diêm Vương. Vua lớn
tiếng bảo rằng: “Kẻ ngu si, giống ngục tốt
kia, ngươi ở dương thế, bất hiếu với cha
mẹ, tà mạng không đạo đức nên phải đọa
vào chỗ này, gọi là A tỳ Địa ngục. Ngươi là
người không biết ơn, không hổ thẹn.
Ngươi chịu khổ não như thế có sướng
không?”. Nói rồi, biến mất.
Bấy giờ ngục tốt lại đuổi tội nhân từ
ngăn dưới lên ngăn trên. Phải trải qua
tám vạn bốn ngàn ngăn giữa mới qua
khỏi lớp lưới sắt cuối cùng, một ngày một
đêm mới khắp A tỳ địa ngục. Một ngày
một đêm ở địa ngục bằng sáu chục tiểu
kiếp ở dương gian. Tội nhân sống như vậy
trong địa ngục một đại kiếp.
Người phạm tội ngũ nghịch không
biết hổ thẹn nên gây tội ấy. Vì tội ngũ
nghịch nên lúc lâm chung có mười tám
thứ phong đao như xe lửa sắt cắt xẻ thân
thể. Tội nhân vì nóng bức nên nói thế
này: “Nếu ta có các thứ hoa sắc đẹp ấy,
cây đại thọ mát mẻ kia, ở đó dạo chơi há
không vui sao!”.
Nghĩ như thế rồi thì có tám vạn bốn
ngàn rừng ác kiếm hóa làm cây báu, hoa
quả tốt tươi, sắp bày ra trước mắt, lửa
nóng hừng hực, hóa làm hoa sen nơi gốc
cây kia. Tội nhân thấy vậy liền nghĩ thầm:
“Ta đã mãn nguyện”.
Trong nháy mắt, tội nhân liền ngồi
trên hoa sen. Trong khoảnh khắc, các
trùng mỏ nhọn, từ trong hoa lửa sinh ra
rúc ráy cốt tủy, thấu suốt tâm can. Tội
nhân phải vịn cây đứng dậy. Các nhành
cây hóa thành lưỡi kiếm, róc thịt chẻ
xương, Vô lượng rừng đao từ không trung
rơi xuống. Những lò hồng, xe lửa, mười
tám điều đau khổ nhất thời đưa đến.
Những cảnh tượng này hiện ra thì
tội nhân bị hãm xuống địa ngục từng
dưới; rồi từ từng dưới lên từng trên. Thân
hình lột hết như hoa nở. Trải khắp ngăn
dưới, rồi lên ngăn trên, bị lửa mạnh thiêu
đốt dữ dội.
Đến ngăn trên rồi, thân hình tràn
khắp ngăn ấy, bị khổ não nung nấu vô
cùng. Tội nhân phải trợn mắt le lưỡi. Vì
phạm tội ngũ nghịch, nên bị vạn ức đồng
sôi, trăm ngàn đao luân, từ trên không
rơi xuống, vào trên đầu, ra dưới chân; đau
khổ còn gấp bội hơn trước nữa một ngàn
vạn phần. Người phạm đủ năm nghịch tội
phải chịu tội đủ năm kiếp .
Lại nữa nếu người nào phá cấm giới
của Phật, luống ăn dùng của tín thí, phỉ
báng Tam Bảo, tà kiến, không biết nhân
quả, không học trí huệ Bát Nhã, khinh
chê mười phương Phật, trộm cắp của
Pháp, làm việc ô uế bất tịnh hạnh, không
hổ thẹn, hủy nhục bà con, tạo các điều ác,
người ấy khi sắp lâm chung, tội báo bị
phong đao xẻ thân, nằm ngửa bất tỉnh,
như bị đánh đập.
Tư tưởng hoang mang, si mê lầm lẫn.
Thấy nhà cửa và con cái nam nữ, và lớn
nhỏ, cùng tất cả sự vật của mình đều bất
tịnh. Tiểu dãi hôi thối, tràn đầy thân thể.
Bấy giờ người ấy nghĩ rằng:
“Sao đây không có thành quách và
núi rừng tốt đẹp, để ta dạo chơi mà lại ở
giữa đám bất tịnh ô uế này ư!”.
Nghĩ như thế rồi, liền bị ngục tốt La
sát lấy cái xoa sắt lớn đánh ngục A tỳ, các
rừng đao hóa làm cây báu, và ao hồ mát
mẻ, lửa dữ hóa làm hoa sen lá vàng;
những con trùng sắt mỏ nhọn hóa làm
chim phù nhạn. Những tiếng thống khổ
trong địa ngục như âm thanh ca vịnh.
Tội nhân trông thấy tốt đẹp như vậy
liền nghĩ rằng: “Ta mau đến đó mà dạo
chơi”. Nghĩ xong liền thấy mình ngồi trên
hoa sen lửa. Các trùng sắt mỏ nhọn từ
các lỗ chân lông trong thân rúc ra, cắn
rức thân thể. Trăm ngàn bánh xe sắt từ
trên đảnh vào thân, hằng hà sa số xoa sắt,
khiêu múc tròng mắt. Chó đồng cẩu
trong địa ngục hóa làm trăm ức chó sắt
dành nhau cấu xé thân hình tội nhân, lấy
trái tim mà ăn. Trong nháy mắt, thân thể
đã thành cánh hoa sắt, tràn khắp mười
tám ngăn ngục, mỗi mỗi hoa có tám vạn
bốn ngàn lá, mỗi mỗi lá, đầu mình tay
chân chi tiết đều ở trong một ngăn; địa
ngục không lớn, thân này không nhỏ, cho
nên biến khắp địa ngục.
Những tội nhân này đọa vào địa
ngục ấy tám vạn bốn ngàn đại kiếp. Ngục
này tiêu diệt rồi lại vào trong mười tám
ngăn ngục khác, chịu khổ như trên. A tỳ
ngục này về phương Nam cũng có mười
tám ngăn; phương Tây cũng có mười tám
ngăn, phương Bắc cũng có mười tám
ngăn.
Hủy báng các kinh Phương đẳng Đại
thừa tạo đủ năm tội nghịch, phá hoại
Hiền Thánh, đoạn các căn lành. Những
người như vậy chịu đủ tội lỗi. Thân lớn
khắp A tỳ địa ngục; tứ chi trải khắp cả
mười tám ngăn. A tỳ địa ngục này chỉ
thiêu đốt những chúng sinh tạo giống địa
ngục như trên. Khi kiếp địa ngục sắp hết
thì thấy cửa địa ngục phương Đông liền
mở. Tội nhân nhìn thấy ngoài cửa ấy có
dòng nước trong chảy mát mẻ; có rừng
cây hoa quả tốt tươi hiện ra, những tội
nhân ở ngăn dưới nhìn thấy thì mắt tạm
bớt đổ lửa. Từ ngăn dưới vươn mình lên
quằn quại bò đi, tuột cả thân hình mà
chạy lên ngăn trên, tay vịn bánh xe đao.
Bấy giờ trên không trung mưa xuống
những hoàn sắt nóng. Tội nhân chạy đến
cửa phương Đông. Vừa đến cổng thì ngục
tốt La sát tay cầm xoa sắt đâm ngược vào
tròng mắt của tội nhân.
Chó đồng cẩu nhai ngầu trái tim; tội
nhân phải chết ngất. Chết rồi sống lại,
thấy cửa phương Nam mở như cửa
phương Đông trước kia không khác.
Cửa phương Tây, phương Bắc cũng
đều như vậy. Trải qua thời gian nửa kiếp,
tội nhân phải chết trong A tỳ địa ngục.
Chết rồi sống lại sinh vào địa ngục
giá lạnh, rồi chết trong địa ngục hàn
băng này.
Chết rồi lại sống, sống rồi lại sinh
vào địa ngục hắc ám, một trăm, một ngàn
vạn năm, mắt không trông thấy, thân làm
con đại trùng, quằn quại bỏ đi; các căn
ám độn, không hiểu biết gì phải quấy; lại
bị một trăm một ngàn hổ lang lôi kéo
dành ăn. Chết rồi lại sinh vào loài súc
sanh, năm ngàn vạn năm làm thân chim
muông. Khổ sở như thế cho đến khi hết
tội, được sinh làm người. Nhưng lại phải
đui, điếc, ngọng, lịu, phung hủi, ung thư,
bần cùng hạ tiện. Bao nhiêu suy đồi khổ
sở mình phải tự rước lấy. Làm thân hèn
hạ như vậy năm trăm lần sống thác. Lại
sinh vào loài quỷ đói. Ở trong Ngạ quỷ
gặp được thiện tri thức các vị đại Bồ Tát
quở trách nói rằng:
“Người ở trong vô lượng đời về trước
đã tạo ra vô lượng tội, phỉ báng Tam Bảo,
không tin nhân quả nên đọa trong A tỳ
địa ngục, chịu nhiều khổ não không thể
kể xiết. Nay ngươi nên phát tâm từ bi”.
Bấy giờ các Ngạ quỷ nghe lời ấy rồi
liền xưng Nam mô Phật.
Nhờ sức hồng ân của chư Phật, liền
được mạng chung, sinh lên cõi trời tứ
thiên. Sinh lên đó rồi, ăn năn tự trách,
phát tâm Bồ đề.
Tâm quang của các chư Phật không
bỏ những người phát tâm này, thâu nhiếp
những người phát tâm như vậy và thương
mến như La Hầu La. Dạy bảo tránh xa địa
ngục, không cho thân xa đọa như quý
tròng con mắt.
Phật bảo Đại vương: “Muốn biết hào
quang chư Phật thường chiếu nơi nào thì
hãy xem hào quang ấy thường chiếu
những nơi chúng sinh đau khổ như vậy
không gián đoạn, không người cứu vớt.
Tâm Phật thường biết nơi đâu? Thường
biết những nơi chúng sinh chịu hành
phạt cực hình, cực ác như vậy. Vậy đem
tâm Phật mà trau giồi tâm mình, trải qua
nhiều số kiếp, khiến các người ác kia
phát tâm Bồ đề”.
Hôm nay đại chúng đồng nghiệp
trong đạo tràng nghe Phật Thế Tôn nói
các thống khổ như trên thì gia tâm giữ ý,
chớ sinh lòng buông lung. Nếu đại chúng
không siêng năng lập phương tiện tu
hành Bồ Tát đạo thì ở trong mỗi địa ngục
đều có tội phần.
Ngày nay đại chúng nên vì hết thảy
chúng sinh hiện đang chịu thống khổ
trong A tỳ địa ngục, vì hết thảy chúng
sinh sẽ chịu thống khổ trong A tỳ địa
ngục, và rộng ra cho đến hết thảy chúng
sanh hiện chịu, và sẽ chịu vô cùng vô tận
thống khổ trong hết thảy địa ngục ở mười
phương mà đầu thành đảnh lễ quy y Thế
gian Đại Từ Bi phụ:
Nam mô Di Lặc Phật.
Nam mô Thích Ca Mâu Ni Phật.
Nam mô Quá Khứ Thất Phật.
Nam mô Thập Phương Thập Phật.
Nam mô Tam Thập Ngũ Phật.
Nam mô Ngũ Thập Tam Phật.
Nam mô Bách Thất Thập Phật.
Nam mô Trang Nghiêm Kiếp Thiên
Phật.
Nam mô Hiền Kiếp Thiên Phật.
Nam mô Tinh Tú Kiếp Thiên Phật.
Nam mô Thập Phương Bồ Tát Ma Ha
Tát.
Nam mô Thập Nhị Bồ Tát.
Nam mô Địa Tạng Vương Bồ Tát.
Nam mô Vô biên Thân Bồ Tát.
Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát.
Lại xin quy y mười phương tận hư
không giới vô lượng hình tượng:
Tượng vàng và tượng chiên đàn của
vua Ưu Điền.
Tượng đồng của vua A Dục.
Tượng đá của Ngô Trung.
Tượng ngọc của nước Sư Tử.
Tượng vàng, tượng bạc, tượng lưu ly,
tượng san hô, tượng hổ phách, tượng xa
cừ, tượng mã não, tượng trân châu, tượng
ma ni, tượng vàng tử ma thượng sắc diêm
phù đàn ở trong các quốc độ. (1 lạy)
Lại quy y hết thảy các tháp thờ tóc
của mười phương Phật.
Quy y hết thảy các tháp thờ hàm
răng.
Quy y hết thảy các tháp thờ răng.
Quy y hết thảy các tháp thờ móng
tay.
Quy y hết thảy các tháp thờ xương
trên đảnh.
Quy y hết thảy các tháp thờ xá lợi
trong thân.
Quy y hết thảy các tháp thờ cà sa.
Quy y hết thảy các tháp thờ muỗng,
bình bát.
Quy y hết thảy các tháp thờ bình
tắm rửa.
Quy y hết thảy các tháp thờ tích
trượng.
Quy y hết thảy các nơi làm Phật sự
như vậy. (1 lạy)
Lại quy y nơi tháp Phật giáng sinh.
Quy y tháp Phật đắc đạo.
Quy y tháp Phật chuyển pháp luân.
Quy y tháp Phật nhập Niết bàn.
Quy y tháp Phật Đa Bửu và tám vạn
bốn ngàn tháp của vua A Dục tạo ra. Quy
y tháp trên trời, tháp ở nhân gian và tất
cả bảo tháp ở trong cung Long Vương. (1
lạy)
Lại quy y như vậy mười phương tận
hư không giới, hết thảy chư Phật.
Quy y mười phương tận hư không
giới hết thảy Tôn Pháp.
Quy y mười phương tận hư không
giới hết thảy Hiền Thánh Tăng. (1 lạy)
Nguyện xin Tam Bảo đồng đem từ bi
lực, an ủi chúng sanh lực, vô lượng đại tự
tại lực, vô lượng đại thần thông lực, thâu
nhiếp thọ lãnh chúng con, ngày nay sám
hối thế cho hết thảy chúng sinh đang
chịu khổ trong A tỳ đại địa ngục, sám hối
thế rộng ra cho đến hết thảy chúng sinh
trong tất cả địa ngục ở tất cả địa ngục ở
mười phương, nhiều không thể kể xiết.
Sám hối thế cho cha mẹ, sư trưởng và tất
cả bà con quyến thuộc. Nguyện xin Tam
Bảo dùng nước đại bi tẩy trừ tội lỗi cho
hết thảy chúng sinh hiện đang chịu khổ
trong A tỳ địa ngục và trong những địa
ngục khác, khiến chúng sinh được thanh
tịnh.
Nguyện xin Tam Bảo tẩy trừ tội lỗi
cho chúng sinh, hiện đồng sám hối trong
đạo tràng hôm nay; tẩy trừ tội lỗi cho tất
cả cha mẹ, sư trưởng, cho hết thảy bà con
quyến thuộc của chúng con, khiến tội lỗi
được thanh tịnh.
Lại xin tẩy trừ tội lỗi cho tất cả
chúng sinh trong sáu đường, khiến chúng
sinh thẳng đến đạo tràng hoàn toàn
thanh tịnh. Từ nay trở đi cho đến ngày
thành Phật, chúng sinh đều đoạn trừ
được hết khổ não trong A tỳ địa ngục.
Rộng ra nữa là đoạn trừ hết thảy thống
khổ nhiều không thể nói, không thể nói
trong các địa ngục, ở mười phương tận hư
không giới. Chúng sinh ấy rốt ráo không
còn đọa trở lại trong ba đường ác, rốt ráo
không còn đọa trở lại trong các địa ngục.
Rốt ráo không còn tạo trở lại mười ác
nghiệp; không còn tạo trở lại năm tội
nghịch để chịu khổ não. Tất cả các tội,
nguyện đều tiêu diệt, bỏ sống địa ngục,
được sống Tịnh độ, bỏ mạng địa ngục,
được mạng trí huệ, bỏ thân địa ngục,
được thân Kim cang, bỏ khổ địa ngục,
được vui Niết bàn; nhớ khổ địa ngục, phát
tâm Bồ đề, tứ đẳng lục độ thường được
hiện tiền; tứ biện lục thông đều được tự
tại như ý; đầy đủ trí huệ tu đạo Bồ Tát,
dõng mãnh tinh tấn, không thôi không
nghỉ, tu hành mãi lên cho đến mãn hạnh
Thập địa vào tâm Kim cang, thành đẳng
Chánh giác để trở lại đời này, độ thoát
hết thảy chúng sinh trong mười phương.
Hôm nay đại chúng đồng nghiệp
trong đạo tràng còn có các địa ngục khác,
chịu khổ rất phức tạp, không thể ghi
chép. Danh hiệu như vậy, khổ sở vô cùng,
đại chúng giở xem trong kinh sẽ thấy rõ
việc ấy.
Trong kinh Phật dạy rằng: “Một
niệm ác của vua Diêm Vương sinh ra đủ
các việc trong địa ngục. Tự thân Diêm
Vương chịu khổ cùng không thể kể xiết”.
Diêm La Đại Vương xưa kia là vị Tỳ
Sa quốc vương, nhân vì cùng với Duy Đà
thủy chúa chiến đấu thất bại, bèn lập thệ
nguyện: “Nguyện ta đời sau làm chủ ngục
trị tội nhân vậy”.
Mười tám vị đại thần và trăm vạn
tùy tùng đồng phát nguyện như vậy.
Tỳ Sa vương ấy nay là Diêm La
vương, mười tám vị đại thần kia, nay là
mười tám ngục vương vậy.
Trăm vạn chúng tùy tùng nay là
ngưu đầu ngục tốt vậy.
Bọn quan thuộc này đều lệ thuộc Bắc
phương Tỳ Sa Môn thiên vương.
Kinh Trường A Hàm chép:
“Chỗ ở của Diêm La Đại vương, tại
Diêm phù đề trong núi Kim cang, về
phương Nam, vương cung dài rộng sáu
ngàn do tuần”. Kinh Đại Địa Ngục dạy
rằng: “Thành quách cung vua Diêm
vương, ở trong địa ngục rộng dài ba vạn
dặm; dùng sắt và đồng mà xây dựng”.
Ngày đêm ba thời có chảo đồng lớn
đựng đầy nước đồng sôi, tự nhiên để phía
trước vua. Có ngục tốt to lớn nằm trên
giường sắt nóng của vua, lấy móc sắt
đánh miệng vua, rót nước đồng sôi vào
miệng vua. Từ yết hầu trở xuống đều
cháy tiêu tan. Các Đại thần kia cũng phải
chịu khổ như vậy.
Mười tám ngục vương ấy tên là:
1. Ca Diên giữ ngục Nê lê.
2. Khuất Tôn giữ ngục Đạo sơn.
3. Phí Thọ giữ ngục Phí sa.
4. Phí Khúc giữ ngục Phất sí.
5. Ca Thế giữ ngục Hắc nhĩ.
6. Hạp Sai giữ ngục Hỏa xa.
7. Than Vị giữ ngục Hoạch than.
8. Thích Ca Nhiên giữ ngục Thiết
sàng
9. Ác Sinh giữ ngục Hạp sơn
10. Thân Ngâm giữ ngục Hàn băng.
Tỳ Ca giữ ngục Bác bì.
12. Diêu Đầu giữ ngục Súc sinh.
13. Đề Bạt giữ ngục Đao binh.
14. Di Đại giữ ngục Thiết ma.
15. Duyệt Đầu giữ ngục Khôi hà.
16. Xuyên Cốt giữ ngục Thiết sách.
17. Danh Thân giữ ngục Thơ trùng.
18. Quán Thân giữ ngục Dương đồng.
Những ngục như vậy đều có vô lượng
địa ngục khác làm quyến thuộc; mỗi ngục
đều có chủ ngục. Ngưu đầu ngục tốt tánh
tình bạo ngược không có một mảy từ tâm.
Thấy chúng sanh chịu ác báo như vậy chỉ
sợ chúng sinh không khổ mà thôi. Nếu
hỏi ngục tốt:
“Chúng sinh chịu khổ như vậy rất
đáng thương xót, sao các ngươi thường cứ
ôm lòng độc ác khốc liệt, không chút
thương tâm?”
Ngục tốt liền đáp:
“Những người chịu khổ ấy tội ác như
thế này: “Bất hiếu với cha mẹ, bài báng
Phật Pháp Tăng, chê bai Thánh Hiền,
nhục mạ lục thân, khinh mạn sư trưởng,
hủy hoại tất cả, nói lời độc ác, nói lời hai
lưỡi, nịnh hót, tật đố, chia rẽ tình cốt
nhục của người , giận hờn nóng nẩy, sát
hại tham dục, dối gạt khinh khi, tà mạng,
tà cầu, lại do vì tà kiến, giải đãi buông
lung, gây kết nhiều thù oán”.
Những người như vậy, đến đây chịu
khổ rồi, mỗi khi được thoát ra chúng tôi
thường khuyên bảo rằng: “Ở đây cực khổ
lắm, không thể chịu được. Các người nay
được ra rồi chớ nên tạo tội mà phải trở
vào đây nữa”.
Nhưng các tội nhân ấy không chịu
chừa bỏ ăn năn, ngày nay ra rồi thoạt vậy
lại vào.
Lần lựa luân hồi, không biết thống
khổ, làm cho chúng tôi phải mỏi mệt vì
các chúng sinh ấy. Kiếp này kiếp khác, cứ
đối đầu nhau mãi. Vì duyên cớ ấy nên
chúng tôi đối với tội nhân không có chút
thương tâm, mà còn cố ý làm cho khổ sở
thêm nữa.
Chúng tôi mong sao họ biết khổ, biết
hổ, biết thẹn, không trở lại đây nữa.
Nhưng chúng tôi xem các chúng
sinh ấy thật là chỉ khổ mà không chịu
tránh, không chí quyết làm lành để vào
Niết bàn.
Họ đã là vật vô tri, không biết tránh
khổ tìm vui, sở dĩ họ phải chịu đau khổ
hơn ở nhân gian, thì làm sao chúng tôi có
thể dung thứ mà sinh tâm thương được.
Hôm nay đại chúng đồng nghiệp
trong đạo tràng hãy đem việc lao ngục ở
thế gian mà so sánh thì có thể biết ngay,
tin chắc rằng việc này không phải là
luống dối.
Giả sử có người ba phen đến cửa
ngục tuy bà con thân tộc nhưng thấy
người ấy cứ vào ra cửa ngục mãi cũng đã
chán ngán, không có lòng buồn thương.
Huống gì ngưu đầu ngục tốt thấy các
chúng sinh đã ra lại vào để chịu thống
khổ mãi mãi.
Vậy đã thoát khỏi địa ngục rồi thì
nên tu tâm dưỡng tánh, cải cách tập
quán. Nếu không chừa bỏ thì nhiều kiếp
chìm trong biển khổ. Đã vào trong ấy rồi,
cứ thứ lớp mà qua, hết khổ này đến khổ
khác, không bao giờ dừng nghỉ.
Vì vậy nên oán thù ba đời, nhân quả
theo nhau, hai vừng thiện ác chưa từng
tạm nghỉ. Việc báo ứng trình bày rõ ràng
rất dễ trông thấy. Làm ác gặp khổ, lấy ác
trả ác, ở trong địa ngục cùng năm mãn
kiếp, chịu thống khổ đủ điều. Hết tội địa
ngục lại làm súc sinh. Hết tội súc sinh lại
làm quỷ đói; trải qua vô lượng sanh tử, vô
lượng thống khổ.
Như thế đại chúng há có thể không
lo tu hành Bồ Tát đạo cho kịp thời sao!
Chúng con ngày nay, nhất tâm đầu
thành đảnh lễ Tam Bảo, nguyện vì hết
thảy chúng sinh trong đường địa ngục,
ngục vương, đại thần, ngưu đầu, ngục tốt
và quyến thuộc của chúng khắp mười
phương, nguyện vì hết thảy chúng sinh
trong đường ngạ quỷ, ngạ quỷ vương, ngạ
quỷ thần v.v... và quyến thuộc của ngạ quỷ
ở khắp mười phương; nguyện vì hết thảy
chúng sinh trong đường súc sinh, súc
sinh thần v.v... và quyến thuộc của súc
sinh khắp mười phương; rộng ra nguyện
vì hết thảy chúng sinh vô cùng vô tận
trong mười phương mà cầu xin sám hối,
cải vãng tu lai, không làm ác nữa. Những
tội đã làm nguyện xin diệt trừ, những tội
chưa làm thề không dám làm.
Nguyện xin hết thảy chư Phật trong
mười phương dùng bất khả tư nghị tự tại
thần lực gia tâm cứu hộ thương xót nhiếp
phải thọ, khiến tất cả chúng sinh tức thời
giải thoát.
Nguyện xin quy y thế gian Đại Từ Bi
phụ:
Nam mô Di Lặc Phật.
Nam mô Thích Ca Mâu Ni Phật.
Nam mô Hoa Nhật Phật.
Nam mô Quân Lực Phật.
Nam mô Hoa Quang Phật.
Nam mô Nhơn Ái Phật.
Nam mô Đại Oai Đức Phật.
Nam mô Phạm Vương Phật.
Nam mô Vô Lượng Minh Phật.
Nam mô Long Đức Phật.
Nam mô Kiên Bộ Phật.
Nam mô Bất Hư Kiến Phật.
Nam mô Tinh Tấn Đức Phật.
Nam mô Thiện Thủ Phật.
Nam mô Hoan Hỷ Phật.
Nam mô Bất Thối Phật.
Nam mô Sư Tử Tướng Phật.
Nam mô Thắng Tri Phật.
Nam mô Pháp Thị Phật.
Nam mô Hỷ Vương Phật.
Nam mô Sa Ngự Phật.
Nam mô Ái Tác Phật.
Nam mô Đức Tý Phật.
Nam mô Hương Tượng Phật.
Nam mô Quán Thị Phật.
Nam mô Vân Âm Phật.
Nam mô Thiện Tư Phật.
Nam mô Sư Tử Phan Bồ Tát.
Nam mô Sư Tử Tác Bồ Tát.
Nam mô Địa Tạng Vương Bồ Tát.
Nam mô Vô Biên Thân Bồ Tát.
Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát.
Lại quy y như vậy tận hư không giới
hết thảy Tam Bảo. Nguyện xin Tam Bảo
rữ lòng từ bi, tự tại thần lực cứu vớt
chúng sinh trong đường địa ngục, ngục
vương, đại thần và quyến thuộc của các vị
ấy cùng mười tám địa ngục.
Mười tám ngăn địa ngục này đều có
mhiều địa ngục khác làm quyến thuộc.
Nguyện xin Tam Bảo cứu vớt hết
thảy ngưu đầu ngục tốt và tất cả chúng
sinh chịu khổ trong đường địa ngục,
khiến các chúng sinh ấy đều được giải
thoát. Tội nhân khổ quả đồng thời tiêu
diệt. Từ nay trở đi, rốt ráo vĩnh viễn đoạn
trừ hết nghiệp địa ngục, rốt ráo không
đọa trong ba đường ác, bỏ sống địa ngục,
được sống Tịnh độ, bỏ mạng địa ngục,
được mạng trí huệ, bỏ thân địa ngục,
được thân Kim cang, bỏ khổ địa ngục
được vui Niết bàn. Nhớ khổ địa ngục,
phát tâm Bồ đề; tứ đẳng lục độ thường
được hiện tiền. Tứ biện lục thông như ý
tự tại.
Dõng mãnh tinh tấn, không thôi
không nghỉ, tiến lên cho đến mãn hạnh
thập địa, trở lại độ thoát hết thảy chúng
sinh, đồng nhập Kim cang, thành đẳng
Chánh giác.
TỪ BI ÐẠO TRÀNG SÁM PHÁP
QUYỂN THỨ TƯ
HẾT

CUỐI QUYỂN TƯ
Lương Hoàng Bảo Sám,
Sắc mạng Sa môn,
Huỳnh kim điện thượng diễn huyền,
Cung các ái tường vân,
Pháp võ tân phân,
Trần thế cảm hoàng ân.
Lương Hoàng Bảo Sám,
Vạn đức hồng danh,
Linh văn tứ quyển tối hoằng thâm,
Tự tự miễn tai truân,
Đảnh lễ Phật danh,
Tiêu tai bảo an ninh.
Nam mô Diệm Huệ Địa Bồ Tát Ma Ha Tát.
(3 lần).









Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét