Quyen-05


LƯƠNG HOÀNG SÁM QUYỂN 05
 



TỪ BI ÐẠO TRÀNG
SÁM PHÁP
Hiệu Chính: HT. THÍCH TRÍ TỊNH
Dịch Giả: HT. THÍCH VIÊN GIÁC
QUYỂN THỨ NĂM
— ----—
QUYỂN 05


CHƯƠNG THỨ CHÍN
GIẢI OAN THÍCH KIẾT
Ngày nay đại chúng đồng nghiệp
trong đạo tràng hiểu rõ tất cả chúng sinh
đều có oán thù với nhau.
Vì sao mà biết?
Vì không có oán thù thì không có ác
đạo. Nay ác đạo không dứt, ba đường còn
mãi, nên biết oán thù không bao giờ cùng
tận.
Kinh dạy rằng:
“Hết thảy chúng sanh đều có tâm. Vì
có tâm nên đều được làm Phật”.
Nhưng chúng sanh tâm tưởng điên
đảo, tham đắm thế gian, không biết lối ra,
cứ vun trồng gốc khổ não, bồi đắp cội oán
thù. Sở dĩ phải luân hồi ba cõi qua lại sáu
đường, xả thân lại thọ thân không bao giờ
cùng tận.
Vì sao vậy?
Vì hết thảy chúng sanh từ vô thỉ trở
lại cho đến ngày nay, mê muội mãi mãi,
vô minh che lấp, nước ái nhận chìm, nên
khởi ra ba độc căn, khởi ra bốn điên đảo.
Từ ba độc căn ấy sinh ra mười phiền não.
Y nơi thân kiến khởi ra ngũ kiến. Y nơi
ngũ kiến khởi ra sáu mươi hai kiến. Y nơi
thân, khẩu, ý khởi ra mười hạnh ác. Thân,
sát, đạo, dâm; miệng vọng ngôn, ỷ ngữ,
lưỡng thiệt, ác khẩu; ý tham, sân, si.
Tự mình làm mười điều ác, dạy
người làm mười điều ác, khen ngợi người
làm mười điều ác. Như vậy, y nơi thân,
khẩu, ý khởi ra bốn chục điều ác.
Lại y nơi sáu căn tham đắm sáu trần,
hơn nữa là mở rộng cửa ác cho tám vạn
bốn ngàn trần lao xâm nhập. Trong
khoảng một niệm, khởi ra sáu mươi hai
kiến chấp.
Trong khoảng một niệm, tạo đủ bốn
chục điều ác. Trong khoảng một niệm,
mở cửa cho tám vạn bốn ngàn trần lao,
huống nữa trong khoảng một ngày, thì
khởi ra biết bao tội ác; huống nữa trong
khoảng một tháng, khởi ra biết bao tội ác;
huống nữa trong khoảng một năm, khởi
ra biết bao tội ác; huống nữa chung thân
lịch kiếp khởi ra biết bao tội ác.
Tội ác như vậy, vô lượng vô biên, oán
thù theo nhau không bao giờ cùng tận.
Nhưng chúng sanh đồng sinh với
ngu si, vô minh che lấp trí huệ, phiền não
che lấp tâm tánh, chúng sanh không tự
hiểu biết.
Tư tưởng điên đảo, không tin lời
kinh, không tin lời Phật, không biết giải
oan, không trông giải thoát.
Chúng sanh tự gieo mình vào đường
ác, như phù du tự gieo mình vào đèn
sáng, nhiều kiếp mê muội, chịu vô lượng
khổ.
Giả sử nghiệp báo hết rồi, được trở
lại làm người, thì người ác như thế, trọn
không cải cách, nên Thánh nhân phải
sinh tâm thương xót. Như vậy cũng chỉ vì
chúng sanh có oán thù với nhau mà ra.
Chúng con nay đã phát tâm Bồ đề, tu
Bồ Tát đạo, thấy Bồ Tát Ma ha tát, lấy việc
cứu khổ làm tư lương, lấy việc giải oan
kiết làm yếu hạnh. Bồ Tát không xả bỏ
chúng sanh mà lấy việc cứu khổ, chịu khổ
thế cho chúng sanh làm nền tảng.
Chúng con ngày nay cũng phải như
vậy; phải khởi tâm dõng mãnh, khởi tâm
từ bi, tâm đồng như tâm Phật, nương nhờ
Phật lực, dựng phan đạo tràng, đánh
trống cam lồ, cầm cung trí huệ, nắm tên
kiên cố, nguyện vì hết thảy tứ sinh, lục
đạo, oán thù ba đời, cha mẹ, sư trưởng,
lục thân quyến thuộc mà cởi mở oán thù.
Những oán thù đã kết đều xả bỏ,
những oán thù chưa kết, rốt ráo không
kết nữa.
Nguyện xin chư Phật, chư Đại Bồ
Tát, dùng từ bi lực, dùng bổn nguyện lực,
dùng thần thông lực, đồng gia tâm che
chở, chiết phục, nhiếp thọ, làm cho vô
lượng oán thù ba đời từ nay trở đi cho
đến ngày thành Phật cởi mở sạch hết,
không còn kết oán thù trở lại, hết thảy
khổ não hoàn toàn đoạn trừ.
Cùng nhau chí tâm, một lòng tha
thiết, đầu thành đảnh lễ Tam Bảo, nguyện
xin thế cho hết thảy chúng sanh trong
bốn loài sáu đường, oán thù ba đời;
nguyện xin thế cho cha mẹ, sư trưởng và
hết thảy bà con quyến thuộc mà quy y
Thế gian Đại Từ Bi phụ:
Nam mô Di Lặc Phật.
Nam mô Thích Ca Mâu Ni Phật.
Nam mô Thiện Ý Phật.
Nam mô Ly Cấu Phật.
Nam mô Nguyệt Tướng Phật.
Nam mô Đại Danh Phật.
Nam mô Châu Kế Phật.
Nam mô Oai Mãnh Phật.
Nam mô Sư Tử Bộ Phật.
Nam mô Đức Thọ Phật.
Nam mô Hoan Thích Phật.
Nam mô Huệ Tụ Phật.
Nam mô An Trú Phật.
Nam mô Hữu Ý Phật.
Nam mô Ương Già Đà Phật.
Nam mô Vô Lượng Ý Phật.
Nam mô Diệu Sắc Phật.
Nam mô Đa Trí Phật.
Nam mô Quang Minh Phật.
Nam mô Kiên Giới Phật.
Nam mô Cát Tường Phật.
Nam mô Bảo Tướng Phật.
Nam mô Liên Hoa Phật.
Nam mô Na La Diên Phật.
Nam mô An Lạc Phật.
Nam mô Trí Tích Phật.
Nam mô Đức Kỉnh Phật.
Nam mô Kiên Dõng Tinh Tấn Bồ Tát.
Nam mô Kim Cang Huệ Bồ Tát.
Nam mô Vô Biên Thân Bồ Tát.
Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát.
Lại quy y như vậy mười phương tận
hư không giới hết thảy Tam Bảo.
Tất cả oán thù như vậy nay ở trong
lục đạo những người đã chịu trả oán rồi,
nguyện xin nhờ Phật lực, Pháp lực, Hiền
Thánh lực, khiến các chúng sanh ấy đều
được giải thoát. Hoặc có chúng sanh nào
ở trong lục đạo đang chịu trả oán, hoặc
chưa chịu trả oán, nguyện xin nhờ Phật
lực, Pháp lực, Hiền Thánh lực, khiến các
chúng sanh ấy hoàn toàn không trở lại
trong các đường ác nữa, hoàn toàn không
còn ác tâm đến với nhau nữa, hoàn toàn
không làm độc hại khổ sở nhau nữa; tất
cả đều xả bỏ, không còn phân biệt oán
thân nữa. Tất cả tội lỗi đều được tiêu trừ.
Tất cả oán thù đều được giải thoát, cùng
nhau đồng tâm, hòa hiệp như nước với
sữa, tất cả đều được hoan hỷ như ở Sơ địa.
Thọ mạng vô cùng, thân tâm an lạc mãi,
tùy ý sinh lên Thiên cung hay vãng sinh
về Tịnh độ. Tưởng ăn có ăn, tưởng mặc có
mặc, không còn nghe tiếng oán thù đấu
tranh nữa.
Thân không bị sự biến diệt xâm lăng,
tâm không bị ngoại trần mê hoặc nhiễm
trước. Điều lành tranh nhau nhóm họp,
điều ác tranh nhau tiêu tan; phát tâm Đại
thừa tu đạo Bồ Tát. Tứ đẳng lục độ đầy
đủ, xả bỏ quả báo sanh tử, đồng đăng đạo
tràng, thành bậc Chánh giác.
Ngày nay đại chúng đồng nghiệp
trong đạo tràng biết cái gì là nguồn gốc
của oán thù đau khổ?
Chính vì mắt tham sắc, tai tham
tiếng, mũi tham hương, lưỡi tham vị, thân
tham xúc tế nhị, nên chúng sanh thường
bị năm ngoại trần ràng buộc, nhiều kiếp
ở trong đêm dài mờ mịt, không được giác
ngộ và giải thoát.
Lại nữa, sáu dòng bà con, tất cả
quyến thuộc đều là nguồn gốc oán thù ba
đời của chúng ta vậy.
Tất cả oán thù đều do thân nhân
khởi ra. Nếu không có Thân thì không có
oán. Vậy ly thân tức là ly được oán.
Vì cớ gì vậy?
Mỗi người ở một xứ, xa cách tha
hương, như thế thì trọn không thể sinh
tâm oán hận. Tâm oán hận sinh ra được
đều do thân cận với nhau.
Vì gốc ba độc tham, sân, si nên xúc
não nhau; vì xúc não nhau nên phần
nhiều hay sinh tâm oán hận.
Sở dĩ bà con thân thích hay trách lẫn
nhau. Hoặc cha mẹ trách con, hoặc con
trách cha mẹ; anh em chị em hết thảy
đều hay trách lẫn nhau, và hiềm hận lẫn
nhau.
Có chút gì không bằng lòng liền sinh
tâm giận dữ.
Nếu giàu sang phú quý thì nhìn bà
con, đua nhau đến xin; khi nghèo thiếu
thì không ai để ý.
Lại nữa, càng xin càng lấy làm thiếu,
càng được càng lấy làm không đủ. Trăm
lần xin, trăm lần được cũng không lấy
làm ơn, hơi không vừa lòng trở lại giận
hờn. Từ đó đã bắt đầu lòng ôm ác niệm,
nghĩ tìm cách cố ý kết thù liên họa, đời
đời không thôi.
Suy ra mà biết, oán thù ba đời, thật
không ai xa lạ, đều là bà con thân thích,
quyến thuộc chúng ta cả.
Vậy nên biết, quyến thuộc là nhóm
oan gia, chúng con không thể không hết
lòng ân cần sám hối, chí tâm đầu thành
đảnh lễ Tam Bảo. Nguyện vì từ khi có
thần thức trở lại cho đến ngày nay, cha
mẹ nhiều đời, bà con nhiều kiếp, ở trong
sáu đường, đã kết oán thù cùng nhau,
hoặc là oán thù hay không phải là oán
thù, hoặc khinh hoặc trọng, hôm nay
hoặc ở trong đường địa ngục, đường ngạ
quỷ, đường súc sinh, đường a tu la, hay ở
trong nhân đạo; hoặc ở trên các cõi Trời,
hoặc ở trong các loài Tiên hay ở trong
vòng bà con quyến thuộc của chúng con;
như thế những người oán thù và quyến
thuộc của các người ấy trong ba đời, ngày
nay chúng con tên... xin đem tâm từ bi,
tâm không phân biệt oán thân, tâm như
tâm Phật, nguyện như nguyện Phật, xin
thay thế hết thảy chúng sanh ấy mà quy y
Thế gian Đại Từ Bi phụ:
Nam mô Di Lặc Phật.
Nam mô Thích Ca Mâu Ni Phật.
Nam mô Phạm Đức Phật.
Nam mô Bảo Tích Phật.
Nam mô Hoa Thiên Phật.
Nam mô Thiện Tư Nghị Phật.
Nam mô Pháp Tự Tại Phật.
Nam mô Danh Văn Ý Phật.
Nam mô Lạc Thuyết Tụ Phật.
Nam mô Kim Cang Tướng Phật.
Nam mô Cầu Lợi Ích Phật.
Nam mô Du Hí Thần Thông Phật.
Nam mô Ly Ám Phật.
Nam mô Đa Thiên Phật.
Nam mô Di Lâu Tướng Phật.
Nam mô Chúng Minh Phật.
Nam mô Bảo Tạng Phật.
Nam mô Cực Cao Hạnh Phật.
Nam mô Đề Sa Phật.
Nam mô Châu Giác Phật.
Nam mô Đức Tán Phật.
Nam mô Nhật Nguyệt Minh Phật.
Nam mô Nhật Minh Phật.
Nam mô Tinh Tú Phật.
Nam mô Sư Tử Tướng Phật.
Nam mô Vi Lam Vương Phật
Nam mô Phước Tạng Phật.
Nam mô Khí Âm Cái Bồ Tát.
Nam mô Tịch Căn Bồ Tát.
Nam mô Vô Biên Thân Bồ Tát.
Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát.
Lại quy y như vậy mười phương tận
hư không giới hết thảy Tam Bảo, nguyện
xin nhờ Phật lực, Pháp lực, Đại địa Bồ Tát
lực, hết thảy Hiền Thánh lực, khiến cho
cha mẹ, bà con chúng con ở trong sáu
đường, nếu người nào có oán thù và
quyến thuộc các người ấy đều đồng thời
vân tập đến đạo tràng này, cùng nhau
sám hối tội đời trước, giải các oán thù đã
kết. Nếu người nào thân hình bị câu thúc,
trở ngại không thể đến được, ngày nay
xin nhờ thần lực của Tam Bảo, thâu nhiếp
tinh thần của các người ấy, khiến họ đến
được đạo tràng, đem lòng từ bi thọ lãnh
sự sám hối của chúng con ngày nay,
nguyện mong giải thoát hết thảy oán thù.
Đại chúng trong đạo tràng đều nên
tâm niệm, miệng nói lời này:
Chúng con tên... từ vô thỉ, khi có
thần thức trở lại cho đến ngày nay, đối
cha mẹ nhiều đời, bà con nhiều kiếp, chú
bác cô dì, quyến thuộc nội ngoại, vì gốc
ba độc khởi ra mười nghiệp ác, hoặc vì
không biết, hoặc vì không tin, hoặc vì
không tu, bởi vô minh che lấp trí huệ nên
sinh ra oán kết, đối với cha mẹ, bà con
cho đến cả trong lục đạo cũng có oán thù.
Những tội như vậy vô lượng vô biên,
ngày nay sám hối nguyện xin trừ diệt.
Lại nữa, từ vô thỉ trở lại cho đến
ngày nay, hoặc vì giận hờn, hoặc vì tham
ái, hoặc vì ngu si, do gốc ba độc mà tạo ra
các tội. Tội ác như vậy, vô lượng vô biên,
hổ thẹn, sám hối, nguyện xin xả thí hết.
Lại nữa, từ vô thỉ trở lại cho đến
ngày nay, hoặc vì ruộng vườn, hoặc vì nhà
cửa, hoặc vì tiền của mà sinh ra nghiệp
oán thù, đối với bà con, cha mẹ đem tâm
sát hại đủ điều. Những tội sát ấy không
thể kể xiết, sinh ra oán thù không bao giờ
hết. Ngày nay hổ thẹn, tỏ bày sám hối,
nguyện xin cha mẹ, sáu dòng bà con, hết
thảy quyến thuộc, đem lòng từ bi cho
chúng con sám hối, xả bỏ tất cả tội lỗi,
không còn tâm oán hận nữa. Cho đến
trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ, thập ác, ngũ
nghịch, chúng con đều có làm cả; vì vọng
tưởng điên đảo, phan duyên các cảnh, tạo
ra hết thảy tội.
Những tội như vậy vô lượng vô biên,
hoặc đối với cha mẹ mà khởi ra, hoặc đối
với anh em, chị em mà khởi ra, hoặc đối
với cô dì, chú bác mà khởi ra, từ khi có
thần thức trở lại cho đến ngày nay, đối
với lục thân quyến thuộc mà khởi ra oán
thù.
Những tội như vậy vô lượng vô biên.
Tội nhân khổ quả như thế phải trả báo,
chịu hành phạt, kiếp số lâu mau, oán kiết
nhiều ít, chỉ có hết thảy chư Phật, chư
Đại Bồ Tát trong mười phương mới thấy
hết, biết hết.
Như chỗ chư Phật và Bồ Tát đã thấy,
đã biết, tội lượng nhiều ít, oán thù bao
nhiêu, thời gian dài ngắn, đến đời vị lai
mới thọ lãnh sự trả thù ấy; ngày nay
chúng con rất hổ thẹn, nghẹn ngào, đau
khổ, tự trách tự hối, xin cải ác tùng thiện,
không dám làm nữa.
Nguyện xin cha mẹ, bà con quyến
thuộc, tất cả thân nhân, đem tâm nhu
nhuyến, tâm điều hòa, tâm lạc thiện, tâm
hoan hỷ, tâm phò hộ, tâm như tâm Phật,
cho chúng con tên... sám hối; xả bỏ tất cả
tội lỗi cho chúng con, không tưởng đến
oán thân nữa.
Lại nguyện xin cho cha mẹ bà con
tất cả quyến thuộc, nếu có ai bị oán thù
trong lục đạo, cũng nguyện xin cho tất cả
chúng sanh trong lục đạo, đồng chung xả
bỏ oán thù.
Hết thảy oán thù trong ba đời nhất
thời sạch hết. Từ nay trở đi cho đến ngày
thành đạo, vĩnh biệt tam đồ, tuyệt bốn ác
thú; tất cả đều hòa hiệp như nước và sữa,
tất cả đều không chướng ngại, như hư
không rộng rãi, hằng làm bà con Phật
pháp, quyến thuộc Từ bi. Mọi người đều
tu tập vô lượng trí huệ, thành tựu tất cả
công đức, dõng mãnh tinh tấn, không
thôi không nghỉ, tu Bồ Tát đạo không biết
mỏi mệt. Tâm đồng như tâm Phật,
nguyện đồng như nguyện Phật, được
pháp Tam mật của chư Phật, đủ năm
phần Pháp thân, cứu cánh Vô thượng Bồ
đề, thành bậc Chánh giác.
Ngày nay đại chúng đồng nghiệp
trong đạo tràng, đã giải oán kết với cha
mẹ rồi, thứ lại nên giải oán kết với Sư
trưởng.
Từ bậc Đại thánh trở xuống, tâm thể
chưa được hoàn toàn viên tịch, vô sanh
Pháp nhẫn, còn bị ba tướng thiên diệt.
Ở địa vị Đẳng giác rồi, Phật còn
phương tiện dùng lời khổ khắc, để cho
những chúng sanh ác độc nhân đó mà
ngộ đạo.
Bậc Minh đức giáo hóa quần sinh
còn nhờ lời khổ khắc ấy, huống gì phàm
phu, cách tuyệt cảnh thanh tịnh, làm sao
khỏi oán.
Nay thiện ác còn phức tạp, minh
bạch chưa phân, làm sao tránh khỏi sự
sai lầm của tam nghiệp, cho nên nghe lời
này phải hổ thẹn.
Đối với ơn đức Sư trưởng phải tự
trách mình, lòng nên hổ thẹn, không nên
nghi ngờ mà sinh ác tâm.
Trong kinh Phật dạy: “Tuy xuất gia,
nhưng chưa được giải thoát, dầu được
xuất gia cũng không nên tự phụ mình
không có điều ác; người tại gia cũng
không nên tự cho mình hoàn toàn không
có điều thiện”.
Vả thôi, không nên nói việc ấy nữa.
Hãy nghe lời Phật dạy trong kinh:
Phật bảo đại chúng: “Các ngươi nên
tưởng nhớ ơn Sư trưởng. Cha mẹ tuy sinh
thân này, nuôi dưỡng, dạy bảo, nhưng
không thể làm cho thân này ra khỏi ba
đường ác. Lòng từ của Sư trưởng rất lớn,
khuyến dụ, dẫn dắt kẻ sơ cơ, cho được
xuất gia, rồi truyền trao cho đại giới (giới
Tỳ kheo). Đó tức là kẻ sơ cơ đã hoài thai
La hán, sẽ sinh quả La hán, xa lìa đau khổ
sanh tử và được yên vui Niết bàn. Sư
trưởng có ơn đức xuất thế ấy, ai hay báo
đáp. Nếu người nào chung thân hành đạo,
đó chỉ là tự lợi, chớ chưa phải là báo đáp
ơn thầy”.
Phật dạy: “Bạn lành trong thiên hạ
không ai bằng Sư trưởng”.
Ngày nay đại chúng đồng nghiệp
trong đạo tràng nghe Phật dạy ơn đức Sư
trưởng nặng như thế, nhưng chúng con
chưa từng khi nào phát tâm nghĩ đến.
Trái lại, có khi Sư trưởng dạy bảo còn
không tin, không lãnh, cho đến còn nói
lời thô tháo sinh tâm phỉ báng ngang
ngược thị phi, làm suy đồi Chánh pháp.
Những tội lỗi như thế làm sao thoát
được Tam đồ. Khổ báo ấy không ai thay
thế! Đến lúc chết rồi, vui đi khổ đến; tinh
thần thảm não, tâm ý hôn mê, tinh thần
không sáng suốt, năm căn tán loạn, muốn
đi chân không thể bước; muốn ngồi thân
không thể yên; giả sử muốn nghe thuyết
pháp tai không thể nghe; muốn xem cảnh
đẹp, mắt không thể thấy. Ngay lúc bấy giờ
muốn nhớ lại sự lễ sám hôm nay cũng
không được, chỉ có những cảnh tượng
rùng rợn hung ác trong địa ngục hiện ra
mà thôi.
Sở dĩ trong kinh Phật dạy: “Người
ngu si tự thị không tin tội phước, hủy
báng Sư trưởng, ghen ghét tật đố. Những
người như vậy là Ma vương trong Phật
pháp, là dòng giống địa ngục, tự kết oán
thù, chịu quả đau khổ vô cùng”.
Như Hoa Quang Tỳ kheo khéo thuyết
pháp bí yếu, có một đệ tử thường ôm lòng
kiêu mạn, Hòa thượng dạy bảo không tin,
không nghe, lại nói thế này: “Đại Hòa
thượng của tôi không có trí huệ, thường
hay tán thán những việc trống rỗng như
hư không. Tôi nguyện đời sau không thấy
ngài nữa”.
Người đệ tử ấy, từ ngày đó pháp nói
phi pháp, phi pháp nói là pháp. Tuy trì
cấm giới không hủy phạm, nhưng vì hiểu
lầm lời thầy nên sau chết rồi, trong một
nháy mắt, liền đọa A tỳ địa ngục, tám
mươi ức kiếp, thường chịu đại thống khổ.
Ngày nay đại chúng đồng nghiệp
trong đạo tràng nghe lời Kinh dạy thế ấy,
mọi người há không sợ hãi sao!
Chỉ đối với Hòa thượng sinh một lời
ác, còn đọa xuống A tỳ địa ngục tám chục
ức kiếp, huống nữa từ khi xuất gia trở lại
cho đến ngày nay, tội lỗi đối với Hòa
thượng đã sinh ra ác nghiệp vô lượng vô
biên. Quyết định bỏ thân này sẽ đồng tội
với người đệ tử kia, sa xuống địa ngục,
không còn nghi gì nữa.
Vì sao vậy? Vì Hòa thượng và A xà lê
thường đem tâm dạy bảo, nhưng chúng
con chưa từng đúng như pháp mà tu
hành. Đối với các bậc Sư trưởng phần
nhiều chúng con hay sinh lòng trái
nghịch, hoặc các ngài cung cấp cho mà
không tự biết chán, biết đủ, hoặc thầy
giận đệ tử, hoặc đệ tử giận thầy, trong ba
đời, sự hỷ nộ vô lượng. Những tội như vậy
không thể kể xiết.
Trong kinh Phật dạy: “Sinh một lòng
sân, oán thù vô lượng”.
Những oán thù ấy không những
trong sáu dòng bà con, mà sư đồ, đệ tử
cũng hiềm hận lắm lắm.
Lại còn những lúc đồng phòng
chung ở, đối với các bậc thượng tọa,
trung tọa, hạ tọa, chúng con không thâm
tín sự xuất gia là pháp viễn ly sanh tử,
không biết nhẫn nhục là hạnh an lạc,
không biết bình đẳng là đường vào Bồ đề,
không biết xa lìa vọng tưởng là tâm xuất
thế, thầy trò đồng phòng chung ở, vì kết
sự phiền não, nghiệp chướng chưa hết
nên hay trái chống nhau, tâm phân biệt
đột nhiên loạn khởi, nên tranh cãi nhau,
sở dĩ vì vậy mà đời đời không hòa hiệp.
Lại nữa, người xuất gia, hoặc là đồng
học nghiệp, hoặc là đồng sư chung học
trong những ngày ấy, thấy người thắng
tấn, chúng liền đem lòng độc hại, sân hận
vì ganh tị mà không tự biết đó là sức trí
huệ đời trước, cho nên người có phước
đức, chúng con không có thiện căn, tâm
hữu lậu của chúng con hay sinh cao hạ,
hay khởi đấu tranh, ít khi hòa hiệp,
không thể nhường nhịn người dày đức,
chúng con bạc phước, bèn hiềm hận
nhau, mình quấy, chỉ nói xấu người, hoặc
vì ba độc mà sàm báng nhau, không có
tâm trung tín, không có ý cung kính,
không khi nào nghĩ lại điều trái của
chúng con. Cho đến cao tiếng lớn lời nói
điều thô lỗ là điều Phật cấm; những điều
Sư trưởng dạy bảo cũng không tin. Các
bậc thượng, trung, hạ tọa, ai cũng ôm
lòng phẫn hận chúng con cả. Vì phẫn hận
nên lại thị phi nhau, thành ra trong ba
đường ác phần nhiều đều có oán thù.
Thị phi oán thù như thế đều do thầy
trò đệ tử chúng con gây ra.
Trong lúc đồng học, chung ở,
thượng, trung, hạ tòa, khởi lên một niệm
tâm sân hận, oán thù đã vô lượng.
Sở dĩ trong kinh Phật dạy: “Đời nay
có ý giận nhau, ghen ghét nhau, tật đố
nhau một chút, đời sau các xấu ấy càng
thêm kịch liệt, thành ra oán thù lớn,
huống nữa ác ý đã phát ra trọn đời thì
nghiệp báo ấy kể sao cho xiết”.
Ngày nay đại chúng đồng nghiệp
trong đạo tràng đều không tự biết trong
lục đạo đã gây thù kết oán với các bậc Sư
trưởng, thượng, trung, hạ tòa. Oán thù ấy
không có ngày cùng tận.
Sự oán thù này không có hình tướng;
thời gian chịu khổ không có kỳ hạn,
không có kiếp số, không thể chịu được.
Vậy nên Bồ Tát Ma ha tát xả tâm oán
thân, dùng tâm từ bi, tâm bình đẳng mà
thâu nhiếp tất cả chúng sanh. Ngày nay
đại chúng đã cùng nhau phát Bồ đề tâm,
phát Bồ đề nguyện nên phải tập tu hạnh
Bồ Tát, Tứ vô lượng tâm, Lục ba la mật,
Tứ hoằng thệ nguyện, Tứ nhiếp pháp. Đó
là sự tu hành căn bản của chư Phật và Bồ
Tát đã làm.
Như chư Phật và Bồ Tát đã làm,
chúng con ngày nay cũng tập làm, oán
thân bình đẳng, hết thảy không ngại
nhau.
Từ nay trở đi cho đến ngày thành
Phật, thề phải cứu hộ hết thảy chúng
sanh, khiến các chúng sanh đều được giải
thoát.
Cùng nhau chí tâm đầu thành đảnh
lễ Tam Bảo, chúng con nguyện vì hết thảy
chúng sanh, kể từ khi có thần thức trở lại
đây, trải qua bao nhiêu đời xuất gia, đối
với các bậc Hòa thượng, A xà lê, mà có
oán thù, đối với các bậc đồng đàn chứng,
mà có oán thù, đối với quyến thuộc đồng
học, thượng, trung, hạ tòa, mà có oán thù,
hoặc đối với người có duyên hay vô duyên
với Phật pháp mà có oán thù; rộng ra cho
đến oán thù ba đời, trong tứ sanh lục đạo,
khắp cùng mười phương, hoặc có oán thù
hay không phải oán thù hoặc khinh hoặc
trọng; đối với quyến thuộc của các người
oán thù ấy, đệ tử chúng con tên... nếu có
oán thù với tất cả chúng sanh trong lục
đạo đến đời vị lai hay trong hiện tại,
chúng con chịu trả quả báo, hôm nay
chúng con nguyện xin sám hối trừ diệt
hết.
Nếu tất cả chúng sanh trong lục đạo,
mỗi mỗi đều oán thù với nhau, ngày nay
đệ tử chúng con tên... xin đem lòng từ bi,
không phân biệt oán thân, khắp vì oán
thù ba đời mà cầu xin sám hối. Nguyện
xin cho các chúng sanh ấy xả bỏ oán thù,
không còn nghĩ đến điều ác độc để hại
nhau nữa, không còn ôm lòng độc ác đến
với nhau nữa. Nguyện xin hết thảy chúng
sanh, trong lục đạo cũng đồng xả bỏ oán
thù, hết thảy đều hoan hỷ với nhau. Từ
nay đã giải oán thù rồi, không còn sân
hận nhau, mà cung kỉnh nhau, tâm nghĩ
báo ơn nhau, như tâm chư Phật, như
nguyện chư Phật; mọi người đều nhất
tâm đảnh lễ quy y thế gian Đại Từ Bi phụ:
Nam mô Di Lặc Phật.
Nam mô Thích Ca Mâu Ni Phật.
Nam mô Kiến Hữu Biên Phật.
Nam mô Điện Minh Phật.
Nam mô Kim Sơn Phật.
Nam mô Sư Tử Đức Phật.
Nam mô Thắng Tướng Phật.
Nam mô Minh Tán Phật.
Nam mô Kiên Tinh Tấn Phật.
Nam mô Cụ Túc Tán Phật.
Nam mô Ly Úy Sư Phật.
Nam mô Ứng Thiên Phật.
Nam mô Đại Đăng Phật.
Nam mô Thế Minh Phật.
Nam mô Diệu Âm Phật.
Nam mô Trì Thượng Công Đức Phật.
Nam mô Ly Ám Phật.
Nam mô Bảo Tán Phật.
Nam mô Sư Tử Giáp Phật.
Nam mô Diệt Quá Phật.
Nam mô Trì Cam Lồ Phật.
Nam mô Nhơn Nguyệt Phật.
Nam mô Hỷ Kiến Phật.
Nam mô Trang Nghiêm Phật.
Nam mô Châu Minh Phật.
Nam mô Sơn Đảnh Phật.
Nam mô Danh Tướng Phật.
Nam mô Pháp Tích Phật
Nam mô Huệ Thượng Bồ Tát.
Nam mô Thường Bất Ly Thế Bồ Tát.
Nam mô Vô Biên Thân Bồ Tát.
Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát.
Lại quy y như vậy mười phương tận
hư không giới hết thảy Tam Bảo, nguyện
xin nhờ Phật lực, Pháp lực, hết thảy Hiền
Thánh lực khiến vô lượng oán thù ba đời,
hoặc oán thù hay không phải oán thù và
hết thảy chúng sanh trong hư không
pháp giới, đều phát tâm sám hối, cởi mở
oán kết; tất cả oán thù đều xả bỏ, không
còn phân biệt oán thân, tất cả đều hòa
hiệp như nước với sữa, tất cả đều hoan hỷ
như ở Sơ địa, tất cả đều vô ngại như hư
không. Từ nay cho đến ngày thành Phật
hằng làm bà con Phật pháp, quyến thuộc
từ bi, như chư Bồ Tát.
Lại nữa, chúng con xin nhờ công đức
nhân duyên lễ bái sám hối hôm nay để cởi
mở oán kết. Nguyện xin chư vị Hòa
thượng, các bậc A xà lê, đồng đàn Tôn
chứng, các vị đồng học và hết thảy quyến
thuộc của các bậc thượng, trung, hạ tòa,
có oán thù, cho đến các chúng sanh trong
bốn loài sáu đường, mỗi mỗi đều có oán
thù ba đời, chưa được giải thoát, ngày nay
hoặc còn ở trong thiên đạo, ở trong tiên
đạo, còn ở trong a tu la đạo, còn ở trong
địa ngục đạo, còn ở trong ngạ quỷ đạo,
còn ở trong súc sinh đạo, còn ở trong
nhân đạo hay còn ở trong bà con quyến
thuộc, mười phương ba đời oán thù như
vậy, hoặc oán thù hay không oán thù, mỗi
người ấy và bà con quyến thuộc của các
người ấy, từ nay trở đi cho đến ngày
thành Phật, tất cả tội chướng, nguyện
đều tiêu diệt, tất cả oán thù hoàn toàn
giải thoát, kiết tập phiền não hằng được
thanh tịnh, tránh xa bốn ác thú, tự tại thọ
sinh, niệm niệm giải thoát, tâm tâm tự
tại, sáu ba la mật đầy đủ trang nghiêm,
hạnh nguyện Thập địa, hoàn toàn viên
mãn, được mười trí lực của Phật, thần
thông vô ngại, chứng quả Bồ đề thành bậc
Chánh giác.
Ngày nay đại chúng đồng nghiệp
trong đạo tràng, biết rõ trên đây đã vì
oán thù ba đời mà giải oan thích kết rồi.
Từ đây trở xuống, riêng từng cá nhân
phải tự trong sạch, phải hết lòng cùng
nhau tự xét. Vì sao mà không được giải
thoát?
Nghĩ về trước, không thấy được Đức
Phật đối diện thọ ký cho mình, suy về sau
cũng không nghe được một pháp âm của
Phật phô diễn. Bởi vì tội nghiệp sâu dày,
oán kết kiên cố cho nên không những
không thấy được Phật đời trước, Phật đời
sau, các vị Bồ Tát và Hiền Thánh, mà còn
sợ e không nghe được âm thanh truyền
hưởng, vang dội của Tam Tạng kinh điển
nữa là khác. Xa cách Phật pháp thì ác đạo
và thù oán không do đâu mà giải thoát.
Bỏ thân mạng này rồi chìm xuống biển
khổ luân chuyển ba đường, trải khắp ác
thú, biết bao giờ trở lại được thân người!
Suy nghĩ như vậy mới thật là đau
lòng, tâm tư như vậy mới thật là khổ trí.
Chúng con được hạnh phúc may
mắn, mong nhờ thuần phong của Phật,
nên cắt ái từ thân, xả gia ly tục, không
còn tưởng nhớ gì nữa, há lại không tranh
thủ thời gian, để cầu giải thoát! Nếu ý chí
không kiên cường, quyết liệt chịu khổ,
không lòng lo sợ, thoạt vậy thân lâm
trọng bệnh, thân trung ấm hiện ra, thì
ngưu đầu, ngục tốt, la sát, a bàng, hình
tướng dễ sợ, thình lình tìm đến, gió
phong đao xẻ thân, tinh thần sợ hãi, tán
loạn, bà con khóc lóc cũng không hay
biết. Ngay lúc bấy giờ sinh một niệm
thiện tâm, cầu lễ sám như ngày nay cũng
không thể được, chỉ thấy vô lượng đau
khổ trong ba đường ác hiện ra.
Ngày nay đại chúng đều phải nỗ lực
tu tập cho kịp thời, nếu cứ tùy ý phóng
túng thì chí hướng thượng phải chậm trễ,
cho nên phải cố gắng chịu khổ mà dõng
mãnh tiến lên.
Vì thế trong kinh có dạy: “Từ bi là
đạo tràng vì nhẫn nhục chịu khổ vậy.
Phát tâm tu theo đạo tràng này thì mọi
việc đều xong xuôi”.
Vậy nên biết rằng: Vạn thiện được
trang nghiêm đều nhờ sự cố gắng nhẫn
nại, cũng như muốn qua bể cả, phải
nương nhờ ghe thuyền. Nếu có tâm cầu
an vui mà không làm việc gây nhân cầu
an vui thì không thể có kết quả an vui. Lý
và sự phải đi đôi với nhau. Người hết
lương thực mà chỉ mơ tưởng cao lương
mỹ vị, tưởng suông như vậy nào có ích gì
cho sự đói khát, cần phải làm thế nào cho
có cao lương mỹ vị thật sự mới được.
Vậy muốn cầu có quả tốt đẹp nhiệm
mầu quyết phải lý và sự đồng hành,
không thể thiếu một.
Đại chúng phải cùng nhau sinh tâm
tăng thượng, phát ý hổ thẹn mà sám hối
diệt tội giải các oán kết. Trái lại cứ mê
mờ theo thói cũ thì chưa biết ngày nào tỏ
ngộ. Nếu mọi người đều giải thoát mà ta
còn trầm luân thì ăn năn không kịp.
Đại chúng nhất tâm đầu thành đảnh
lễ quy y Thế gian Đại Từ Bi phụ.
Nam mô Di Lặc Phật.
Nam mô Thích Ca Mâu Ni Phật.
Nam mô Định Nghĩa Phật.
Nam mô Thí Nguyện Phật.
Nam mô Bảo Chúng Phật.
Na mô Chúng Vương Phật.
Nam mô Du Bộ Phật.
Nam mô An Ổn Phật.
Nam mô Pháp Sai Biệt Phật.
Nam mô Thượng Tôn Phật.
Nam mô Cực Cao Đức Phật.
Nam mô Thượng Sư Tử Âm Phật.
Nam mô Lạc Hý Phật.
Nam mô Long Minh Phật.
Nam mô Hoa Sơn Phật.
Nam mô Long Hỷ Phật.
Nam mô Hương Tự Tại Vương Phật.
Nam mô Đại Danh Phật.
Nam mô Thiền Lực Phật.
Nam mô Đức Man Phật.
Nam mô Long Thủ Phật.
Nam mô Thiện Hành Ý Phật.
Nam mô Nhân Trang Nghiêm Phật.
Nam mô Trí Thắng Phật.
Nam mô Vô Lượng Nguyệt Phật.
Nam mô Thực Ngữ Phật.
Nam mô Nhật Minh Phật.
Nam mô Dược Vương Bồ Tát.
Nam mô Dược Thượng Bồ Tát.
Nam mô Vô Biên Thân Bồ Tát.
Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát.
Lại quy y như vậy mười phương tận
hư không giới hết thảy Tam Bảo, đệ tử
chúng con tên... tích tập tội chướng sâu
dày hơn đại địa, bị vô minh che lấp tâm
tánh, trong đêm dài mù mịt, do ba độc mà
tạo nhân thù oán, nên mê muội, chìm sâu
trong ba cõi không có ngày ra.
Ngày nay nhờ sức từ bi của chư Phật,
chư đại Bồ Tát mới mong giác ngộ, sinh
tâm hổ thẹn, chí thành cầu xin tỏ bày
sám hối. Nguyện xin chư Phật, chư đại Bồ
Tát rũ lòng từ bi thâu nhiếp chúng con,
đem sức đại trí huệ, sức bất tư nghì, sức
vô lượng tự tại, sức hàng phục tứ ma, sức
diệt trừ phiền não, sức giải oan kết, sức
độ thoát chúng sanh, sức an ổn chúng
sanh, sức giải thoát địa ngục, sức tế độ
ngạ quỷ, sức cứu vớt súc sinh, sức nhiếp
hóa a tu la, sức nhiếp thọ nhân đạo, sức
tận chư Thiên chư Tiên hữu lậu, sức vô
lượng vô biên công đức, vô lượng vô tận
trí huệ, nhờ những sức lực ấy khiến các
chúng sanh có oán thù trong bốn loài sáu
đường, đồng đến đạo tràng thọ lãnh sự
sám hối của chúng con hôm nay.
Chúng con tên... xả bỏ tất cả sự thù
oán, không còn tư tưởng oán thù. Những
nghiệp oán thù đã kết đều được giải
thoát. Hằng lìa tám nạn khổ, không còn
bốn ác thú, thường gặp được chư Phật,
nghe Pháp, ngộ Đạo, phát tâm Bồ đề, tu
nghiệp xuất thế. Tứ Vô lượng tâm, sáu Ba
la mật hết lòng tu tập, tất cả hạnh
nguyện đều được viên mãn, đồng lên
Thập địa, đồng vào Kim cang, đồng thành
Chánh giác.
Ngày nay đại chúng đồng nghiệp
trong đạo tràng nên nhận thấy rằng: Oán
thù theo nhau đều do ba nghiệp đày đọa
con người tu hành phải chịu khổ báo, khó
chứng đạo quả.
Đã biết nguồn gốc đau khổ, đều do
ba nghiệp thì phải dõng mãnh diệt trừ ba
nghiệp. Điều kiện thiết yếu dùng để diệt
khổ, duy chỉ có phương pháp sám hối.
Cho nên trong kinh Phật khen ngợi rằng:
“Ở đời chỉ có hai hạng người mạnh nhất:
Một là hạng người không tạo tội, hai là
người tạo tội rồi mà biết ăn năn, sám hối”.
Ngày nay đại chúng muốn sám hối,
thân tâm đều phải trong sạch, y phục
chỉnh tề, sinh lòng hổ thẹn, buồn thảm ảo
não, sinh hai niệm tâm thì tội gì cũng
diệt, phước gì cũng sinh.
Những gì là hai?
Một là biết hổ, hai là biết thẹn. Hổ là
xấu hổ với trời. Thẹn là thẹn thùng với
người. Hổ là tự mình hay sám hối, diệt
trừ các oán thù. Thẹn là hay dạy bảo
người cởi mở các sự trói buộc. Hổ là hay
làm các điều thiện. Thẹn là hay tùy hỷ
các việc thiện của người. Hổ là tự xấu hổ
trong tâm. Thẹn là phát lồ, tỏ bày tội lỗi
với người.
Nhờ hai pháp ấy mà người tu hành
được pháp an vui vô ngại.
Ngày nay đã sinh tâm đại hổ thẹn,
làm lễ đại sám hối, nên phải hết lòng cầu
xin tứ sinh lục đạo. Vì sao vậy?
Vì trong kinh Phật dạy rằng: “Tất cả
chúng sanh đều là bà con quyến thuộc với
nhau, hoặc đã từng làm cha mẹ, hoặc đã
từng làm Sư trưởng, cho đến hoặc đã
từng làm anh em chị em với nhau. Hết
thảy chúng sanh đều như thế. Bởi vô
minh che lấp chơn tánh nên không biết
nhau. Vì không biết nên hay sinh ra xúc
não và oán thù nhau mãi mãi”.
Ngày nay đại chúng đã hiểu biết ý ấy,
nên phải hết lòng thành khẩn tha thiết
dụng tâm, quyết khiến một niệm tâm
cảm mười phương Phật, một lạy đoạn trừ
vô lượng oán thù.
Đại chúng nhất tâm đầu thành đảnh
lễ quy y Thế gian Đại Từ Bi phụ:
Nam mô Di Lặc Phật.
Nam mô Thích Ca Mâu Ni Phật.
Nam mô Định Ý Phật.
Nam mô Vô Lượng Hình Phật.
Nam mô Minh Chiếu Phật.
Nam mô Bảo Tướng Phật.
Nam mô Đoạn Nghi Phật.
Nam mô Thiện Minh Phật.
Nam mô Bất Hư Bộ Phật.
Nam mô Giác Ngộ Phật.
Nam mô Hoa Tướng Phật.
Nam mô Sơn Chủ Vương Phật.
Nam mô Đại Oai Đức Phật.
Nam mô Biến Kiến Phật.
Nam mô Vô Lượng Danh Phật.
Nam mô Bảo Thiên Phật.
Nam mô Trú Nghĩa Phật.
Nam mô Mãn Ý Phật.
Nam mô Thượng Tán Phật.
Nam mô Vô Ưu Phật.
Nam mô Vô Cấu Phật.
Nam mô Phạm Thiên Phật.
Nam mô Hoa Minh Phật.
Nam mô Thân Sai Biệt Phật.
Nam mô Pháp Minh Phật.
Nam mô Tận Kiến Phật.
Nam mô Đức Tịnh Phật.
Nam mô Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát.
Nam mô Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát.
Nam mô Vô Biên Thân Bồ Tát.
Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát.
Lại quy y như vậy mười phương tận
hư không giới hết thảy Tam Bảo.
Nguyện xin Tam Bảo đồng gia tâm
nhiếp thọ chúng con.
Chúng con tên... cầu xin: Những điều
sám hối đều được diệt trừ, đều được
thanh tịnh.
Lại nguyện xin cho những người
đồng sám hối hôm nay từ nay trở đi cho
đến ngày thành Phật, tất cả oán thù đều
được giải thoát, tất cả thống khổ đều
được tiêu diệt hoàn toàn; kiết tập phiền
não hằng được thanh tịnh. Xa lìa bốn ác
thú, tự tại thọ sinh, đích thân hầu hạ chư
Phật, được Phật thọ ký, lục độ, tứ đẳng,
nhất thời đồng tu, đủ bốn biện tài, được
mười trí lực, tướng tốt nghiêm thân, thần
thông vô ngại, vào Kim cang tâm, thành
bậc Chánh giác.
TỪ BI ÐẠO TRÀNG SÁM PHÁP
QUYỂN THỨ NĂM
HẾT

CUỐI QUYỂN NĂM
Lương Hoàng Bảo Sám.
Chí Công tuyên dương,
Cửu trùng cung điện phóng hào
quang.
Hy Thị miễn tai ương.
Cảm tạ quân vương.
Thoát khổ thượng thiên đường.
Lương Hoàng Bảo Sám,
Vạn đức hồng danh,
Linh văn ngũ quyển tối hoằng thâm,
Tự tự miễn tai truân,
Đảnh lễ Phật danh,
Tiêu tai bảo an ninh.
Nam Mô Nan Thắng Địa Bồ Tát Ma Ha
Tát. (3 lần).









Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét