Quyen-07


LƯƠNG HOÀNG SÁM QUYỂN 07
 



TỪ BI ÐẠO TRÀNG
SÁM PHÁP
Hiệu Chính: HT. THÍCH TRÍ TỊNH
Dịch Giả: HT. THÍCH VIÊN GIÁC
QUYỂN THỨ BẢY
— ----—
QUYỂN 07


LỜI THUẬT KHUYẾN CỦA SÁM CHỦ
Ngày nay, đại chúng đồng nghiệp
trong đạo tràng hết lòng lắng nghe:
Luận rằng: Chổ chí đức nhiệm mầu
trạm tịch, vốn không thể nói; không thể
nghĩ bàn. Nhưng phải tạm dùng lời để
diễn tả trình bày chổ chí đức không thể
trình bày diễn tả ấy.
Lời nói là con đường tắt, là phương
tiện dắt người vào đạo. Lời nói là cấp bậc,
là thềm thang tạm mượn để đi đến chổ
chí lý, chí đức ấy. Lời nói là phương tiện
của Thánh nhân tạm dùng để giáo hóa
chúng sanh.
Sở dĩ vì vậy nên tạm mượn lời nói để
tả rõ chân lý. Khi chân lý đã được diễn tả
rõ ràng rồi thì chân lý hẳn không phải là
lời nói. Nhưng chân lý đã do lời nói mà
hiểu rõ được thì lời nói không ra ngoài
chân lý.
Tuy lời nói và chân lý hai điều trái
nhau nhưng mà ảnh hưởng lẫn nhau,
chưa từng sai lầm.
Đối với người sơ cơ hữu học cần phải
nhân nơi lời nói để hiểu đạo; đến địa vị vô
học, thể nhập chân lý rồi thì lời nói trở
nên vô dụng.
Chỉ vì phàm ngu mê muội, nghiệp
chướng sâu dày nên đối với mọi việc
không thể không dùng lời nói.
Hiện tại trí thức thô thiển, không
hiểu thấu được lý nhiệm mầu; kiến giải
cạn cợt không thông đạt được lẽ cùng
cực.
Nhưng nói thì dễ, làm thật khó. Chỉ
có Thánh với Thánh mới được hoàn toàn.
Nay có lời vấn nạn rằng: “Tự mình
không chân chính làm sao khiến người
chân chính được”. Ba nghiệp của mình uế
trược, làm sao khuyên người thanh tịnh
được? Tự mình không thanh tịnh, muốn
khiến người thanh tịnh thì không có lý.
Tự mình không kiên cố, lấy gì
khuyên người kiên cố. Lời nói và việc làm
khác nhau càng làm cho người sinh phiền
não.
Đã làm cho người sinh phiền não, thì
không nói còn hơn. Nghĩ cho kỹ, tự mình
há không sinh tâm hổ thẹn sao! Tôi là
thiện tri thức nên phát ra lời ấy.
Đến đây thì nên sửa sang y phục,
thúc liễm dung nghi, không nên nói một
lời gì nữa. Nay tôi là tác giả nghe thiện tri
thức nói như trên, lòng tôi rất hổ thẹn; tự
biết mình có lỗi nhiều, không dám khinh
Thánh nhân mà tự che giấu tội lỗi.
Nay tôi muốn bỏ qua không nói pháp
sám này nữa, nhưng sợ có người nhân
nghe lời tôi mà thêm phước. Nếu tôi
không bỏ qua, cứ giữ ý kiến này lại, thì sợ
có người nhân đó mà sinh tội khinh chê
hủy báng.
Tấn thối lưỡng nan, tôi không biết
làm thế nào nên mới lập ra pháp sám này.
Tâm đã thiện thì đối các thiện pháp
đều vô ngại. Đại chúng nên nỗ lực mà
sám hối, không nên chấp trước các lời
vấn nạn trên kia, mà phải một lòng nhờ
đấng Đại Từ Bi phụ che chở nhiếp thọ
cho.
Đã có lời như thế thì không thể bỏ
qua mà không sám hối; cần phải sinh tâm
hổ thẹn.
Nguyện xin đại chúng chớ xúc não
nhau. Như lời tôi có chút hợp lý thì cùng
nhau nhân đó mà cải ác tùng thiện, làm
thiện tri thức với nhau. Nếu lời tôi không
hợp ý đại chúng thì xin đại chúng hoan
hỷ bố thí, đừng trở lại làm ác tri thức mà
nên cùng nhau kết thành Bồ đề quyến
thuộc.

CHƯƠNG THỨ MƯỜI
TỰ VUI MỪNG
Ngày nay đại chúng đồng nghiệp
trong đạo tràng, từ khi quy y trở lại đây,
biết chỗ chí đức là nơi nương tựa của tất
cả.
Đoạn nghi, sám hối thì tội ác mê lầm
đều tiêu diệt. Tiếp đến phát tâm dìu dắt
nhau tu hành thì cởi mở được oán thù,
tiêu diêu tự tại.
Như thế thời đại chúng há lại không
hớn hở vui mừng hay sao?
Nay nói ý nghĩa những điều đáng vui
mừng sung sướng thì trong kinh chép
rằng:
Có tám nạn khổ: Một là Địa ngục, hai
là Ngạ quỷ, ba là Súc sinh, bốn là Biên địa,
năm là Trường Thọ Thiên, sáu là tuy được
thân người mà câm điếc, ngọng liệu, tàn
tật; bảy là sinh vào nhà Tà kiến, tám là
sinh trước Phật hay sau Phật.
Vì có tám nạn ấy nên chúng sanh cứ
chìm đắm mãi trong biển luân hồi sinh
tử, không thể ra được.
Nay chúng con sinh nhằm đời tượng
pháp tuy không gặp Phật, nhưng sự vui
mừng còn nhiều.
Phàm có nạn là tại tâm, nếu tâm
sinh nghi ngờ thì không phải nạn cũng
thành nạn.
Nếu tâm không sinh nghi ngờ thì
nạn gì cũng thành ra phi nạn.
Vì sao biết được?
Ví như nạn thứ tám, nói rằng sinh
trước Phật hoặc sinh sau Phật là nạn.
Nhưng bà già ở thành Đông, đồng sinh
với Phật một thời, đồng ở với Phật một xứ
mà bà già ấy không thấy Phật. Cho nên
biết rằng tâm nghi ngờ là nạn, vị tất
không đồng thời với Phật mà cho là nạn.
Ma Ba Tuần ôm lòng ác độc trong
khi còn sống đã đọa vào địa ngục.
Rồng nghe thuyết pháp còn ngộ
được đạo Bồ đề. Vậy chắc gì ở nhân gian
hay thiên thượng mà liền cho không có
nạn. Tâm nếu biết điều thiện thì quả báo
bình đẳng.
Cõi trời Lục dục là cao quý mà đọa
địa ngục, súc sinh là thấp hèn mà lên
được đạo tràng.
Thế nên tâm tà thì khinh nạn thành
trọng, tâm chánh thì trọng nạn thành vô
ngại.
Ngày nay đại chúng đồng nghiệp
trong đạo tràng vì tâm nghi nên gặp việc
không phải nạn thành ra nạn. Nếu tâm
chánh thì nạn thành phi nạn.
Nay chỉ cứ ra một điều ấy cũng đủ
hiểu rõ; trước Phật hay sau Phật đều là
Chánh pháp; biên địa súc sinh đều là đạo
tràng.
Nếu tâm chánh thì không còn nạn
nữa, bằng tâm còn nghi ngờ thì nạn
thành ra vô lượng.
Những điều vui mừng như thế sự
thật không phải là ít, trong nhật dụng
hằng ngày đại chúng không tự biết công
đức của mình. Nay tôi sơ lược trình bày
qua sự vui mừng theo thiển kiến của tôi
để đại chúng tự suy nghĩ.
Nếu biết được sự vui mừng của mình
thì cần phải tu tâm xuất thế.
Tự vui mừng những gì?
Phật dạy: “Địa ngục khó thoát khỏi,
nay chúng ta đã cùng nhau xa lìa được
khổ Địa ngục”. Đó là sự vui mừng thứ
nhất.
- “Ngạ quỷ khó thoát được, nay
chúng ta đã thoát được những thống khổ
đói khát của Ngạ quỷ”. Đó là sự vui mừng
thứ hai.
- “Súc sinh khó xả bỏ, nay chúng ta
đã thoát được quả báo súc sinh”. Đó là sự
vui mừng thứ ba.
- “Sinh ở biên địa, không biết nhân
nghĩa; nay chúng ta đồng được chung ở
giữa quốc độ có Phật, Pháp lưu hành; đích
thân thừa hưởng được giáo lý nhiệm mầu
của chư Phật”. Đó là sự vui mừng thứ tư.
- “Sinh lên cõi trời trường thọ,
không biết trồng cội phúc; nay chúng ta ở
đây đều được trồng căn lành”. Đó là sự vui
mừng thứ năm.
- “Thân người khó được, một phen
mất khó có trở lại; nay chúng ta đều được
làm người”. Đó là sự vui mừng thứ sáu.
- “Sáu căn không đầy đủ thì không
trồng được căn lành; nay chúng ta đều
được thanh tịnh, hướng về pháp môn
thâm diệu của Phật”. Đó là sự vui mừng
thứ bảy.
- “Có Thế trí biện thông tức là không
phải nạn mà thành nạn, nay chúng ta
nhất tâm nương về Chánh pháp”. Đó là sự
vui mừng thứ tám.
- “Trước Phật sau Phật đều là nạn,
hoặc cho rằng mắt mình không thấy Phật
là đại nạn. Nay chúng ta đã cùng nhau
phát đại thiện nguyện, thề độ hết thảy
chúng sanh cùng tận đời vị lai; không
chấp việc không thấy Phật là nạn. Chỉ
một phen thấy hình tướng Phật, một
phen nghe được Chánh pháp, cũng tự cho
đồng như ngày xưa được thấy nghe Đức
Phật thuyết pháp đầu tiên tại vườn Lộc
Uyển. Việc làm của chúng ta mục đích là
diệt được tội, sinh được phước là quý; chứ
không phải vì không thấy Phật mà cho là
nạn”.
- Phật dạy: “Thấy được Phật là khó.
Nay chúng ta đã cùng nhau chiêm
ngưỡng được hình tướng Phật”. Đó là sự
vui mừng thứ chín.
- Phật dạy: “Nghe được pháp Phật là
khó. Nay chúng ta đã cùng nhau hưởng
được Cam lồ pháp vị của Phật”. Đó là sự
vui mừng thứ mười.
- Phật dạy: “Xuất gia được là khó.
Nay chúng ta được từ thân cát ái trở về
với Đạo”. Đó là sự vui mừng thứ mười
một.
- Phật dạy: “Lợi cho mình là dễ, lợi
cho người là khó”. Nay chúng ta một lạy,
một bái đều vì tất cả chúng sanh khắp
mười phương mà hồi hướng công đức. Đó
là sự vui mừng thứ mười hai.
- Phật dạy: “Chịu khổ, chịu cực được
là khó”. Nay chúng ta, mọi người đều kiều
cần, siêng năng làm lành không nghỉ,
không biếng nhác. Đó là sự vui mừng thứ
mười ba.
- Phật dạy: “Đọc tụng kinh điển được
là khó”. Nay chúng ta giờ phút này đang
đọc tụng kinh điển của Phật. Đó là sự vui
mừng thứ mười bốn.
- Phật dạy: “Tọa thiền là khó”. Nay
chúng ta có người tức tâm định ý. Đó là
sự vui mừng thứ mười lăm.
Ngày nay đại chúng đồng nghiệp
trong đạo tràng thấy có nhiều sự vui
mừng như vậy vô lượng vô biên, không
phải bấy nhiêu lời đó mà có thể kể hết
được.
Phàm người ở đời vui ít khổ nhiều.
Được một điều vui mừng còn hớn hở thay,
huống gì nay chúng ta có nhiều điều vui
vô ngại.
Được vô ngại này đều nhờ sức oai
thần của mười phương Tam Bảo. Chúng
ta mọi người đều nên nhớ tưởng ơn đức
Phật, Pháp, Tăng. Đại chúng nên tha thiết
đầu thành đảnh lễ Tam Bảo, nguyện xin
thay thế hết thảy Quốc vương, Đế chúa,
Thổ cảnh, nhân dân, cha mẹ, Sư trưởng,
thượng, trung, hạ tòa, tín thí đàn việt,
thiện ác tri thức, chư Thiên, chư Tiên, hộ
thế Tứ vương, thông minh chính trực,
Thiên địa, hư không, chủ thiện phạt ác,
thủ hộ trì chú, ngũ phương Long vương,
Long thần, Bát bộ, chư đại Ma vương, ngũ
đế Đại ma, nhất thiết Ma vương, Diêm la
vương, Thái sơn Phủ quân, ngũ đạo, Đại
thần, Thập bát Ngục vương và các quan
thuộc trong địa ngục; rộng ra cho đến vô
cùng vô tận các loài hữu tình, có thần
thức, có Phật tánh trong ba cõi sáu
đường; nguyện vì các chúng sanh ấy mà
quy y tận hư không giới hết thảy mười
phương Tam Bảo.
Nguyện xin Tam Bảo rũ lòng từ bi,
đồng gia tâm nhiếp thọ, đồng đem thần
lực tự tại bất khả tư nghị mà che chở cứu
vớt, làm cho hết thảy chư Thiên, chư
Tiên, hết thảy Thần vương, Thần tướng,
rộng ra cho đến hết thảy chúng sanh
trong sáu đường, từ đây trở đi vượt khỏi
biển sinh tử, đến bờ giải thoát bên kia,
hạnh nguyện sớm viên mãn, đồng lên
Thập địa vào Kim cang tâm, thành bậc
Chánh giác.

CHƯƠNG THỨ MƯỜI MỘT
TƯỞNG NHỚ ƠN TAM BẢO
Ngày nay đại chúng đồng nghiệp
trong đạo tràng đều nên nhớ tưởng ơn
Tam Bảo.
Vì sao vậy?
Bởi vì, giả sử như không biết Tam
Bảo, thì làm sao sinh khởi từ tâm, thương
xót chúng sanh. Giả sử không biết Tam
Bảo thì làm sao sinh khởi bi tâm, cứu hộ
nhiếp thọ hết thảy chúng sanh. Giả sử
không biết Tam Bảo, thì làm sao sinh
khởi tâm bình đẳng quán sát oán thân
như nhau. Giả sử không biết Tam Bảo, thì
làm sao có được diệu trí chứng đạo Vô
thượng. Giả sử không biết Tam Bảo, thì
làm sao hiểu rõ được lý nhị không (Nhân
không, Pháp không) là chân không chân
thật, vô tướng mà tu hành.
Phật dạy:
“Thân người khó được, nay đã được,
lòng tin khó sinh, nay đã sinh”.
Chúng con ngày nay nhờ quy y Tam
Bảo, mắt không thấy sắc lửa phun, cảnh
rút lưỡi ở địa ngục, ngạ quỷ; tai không
nghe tiếng kêu la nhiệt não, khổ sở ở
cảnh địa ngục, ngạ quỷ; mũi không ngửi
mùi máu mủ tanh hôi, lột da xẻ thịt ở
cảnh địa ngục, ngạ quỷ; lưỡi không nếm
mùi hôi thối, hư nát; thân không xúc
chạm cảnh giá lạnh, lò than hồng, vạc dầu
sôi ở địa ngục; ý thường biết Phật là đấng
Cha lành, từ bi vô thượng, là đấng Đại y
vương; ý biết tất cả Phật pháp, là thuốc
hay để trị bệnh cho tất cả chúng sanh;
biết các vị Hiền Thánh là từ mẫu săn sóc
bệnh hoạn cho tất cả chúng sanh. Ý
thường biết nghĩ tưởng Tam Bảo là ba
ngôi báu ủng hộ thế gian; ý thường tưởng
nghĩ gì chúng ta đều biết được hết.
Chúng con ngày nay tuy sinh ra
không gặp Phật, nhằm đời mạt pháp,
nhưng không có đủ tín tâm, sáu căn
thanh tịnh, không có suy não, đi lại vừa ý,
đứng ngồi tự do, vô ngại. Những quả báo
tốt đẹp ấy đều do duyên lành đời trước,
nhờ ơn Tam Bảo khiến phát tâm Bồ đề.
Những lợi ích như thế vô lượng vô biên,
không thể kể xiết. Vậy chúng con há lại
không lo báo ân, cúng dường Tam Bảo
hay sao?
Ngày nay đại chúng đồng nghiệp
trong đạo tràng nên biết rằng: “Cúng
dường là công đức lớn hơn hết thảy trong
tất cả các công đức”.
Trong kinh Phật dạy: “Nhớ lại đời
quá khứ chỉ cúng dường Tam Bảo một
mảy may, nhờ phước báo ấy, nay gặp được
Phật Thế Tôn”.
Lại nữa, trong kinh cũng chép rằng:
“Nếu muốn được quả báo tốt mà xây tháp,
lập tịnh xá, cúng dầu đèn, tràng phan,
bảo cái, hoa hương, nệm gối và bao nhiêu
thứ cúng dường khác v.v... cũng chưa phải
là báo ơn Đức Phật”.
Muốn báo ơn Đức Phật, cần phải
phát tâm Bồ đề, lập bốn lời thệ nguyện
rộng lớn, tạo vô lượng duyên lành, trau
giồi thân tâm, tu hạnh Tịnh độ. Ấy là kẻ
trí biết báo ơn Đức Phật vậy.
Ngày nay đại chúng đồng nghiệp
trong đạo tràng nhận thấy ân đức từ bi vô
lượng của Đức Phật không thể báo đáp.
Các vị đại Bồ Tát nghiền thân cúng dường
mà còn chưa thể báo ơn Đức Phật muôn
một, huống gì chúng con là phàm phu mà
có thể báo ơn Đức Phật được sao? Đại
chúng chỉ y theo lời Kinh dạy mà làm việc
lợi ích cho người là hơn hết. Mọi người
nên hết lòng đầu thành đảnh lễ Tam Bảo
khắp vì hết thảy chúng sanh, vô cùng, vô
tận trong bốn loài sáu đường mà quy y
Thế gian Đại Từ Bi phụ:
Nam mô Di Lặc Phật.
Nam mô Thích Ca Mâu Ni Phật.
Nam mô Đức Bảo Phật.
Nam mô Ứng Danh Xưng Phật.
Nam mô Hoa Thân Phật.
Nam mô Đại Âm Thanh Phật.
Nam mô Biện Tài Tán Phật.
Nam mô Kim Cang Châu Phật.
Nam mô Vô Lượng Thọ Phật.
Nam mô Châu Trang Nghiêm Phật.
Nam mô Đại Vương Phật.
Nam mô Đức Cao Hạnh Phật.
Nam mô Cao Danh Phật.
Nam mô Bách Quang Phật.
Nam mô Hỷ Diệt Phật.
Nam mô Long Bộ Phật.
Nam mô Ý Nguyện Phật.
Nam mô Bảo Nguyệt Phật.
Nam mô Diệt Kỷ Phật.
Nam mô Hỷ Vương Phật.
Nam mô Điều Ngự Phật.
Nam mô Hỷ Tự Tại Phật.
Nam mô Bảo Kế Phật.
Nam mô Ly Úy Phật.
Nam mô Bảo Tạng Phật.
Nam mô Nguyệt Diện Phật.
Nam mô Tịnh Danh Phật.
Nam mô Vô Biên Thân Bồ Tát.
Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát.
Lại quy y như vậy mười phương tận
hư không giới hết thảy Tam bảo.

CHƯƠNG THỨ MƯỜI HAI
CHỦ SÁM LỄ TẠ ĐẠI CHÚNG
Ngày nay đại chúng đồng nghiệp
trong đạo tràng đã cùng nhau sinh lòng
tin kiên cố, phát tâm Bồ đề, thề không
thối chuyển. Đó là một chí khí có năng
lực mạnh không thể nghĩ bàn. Tâm ấy, chí
ấy chư Phật rất ngợi khen.
Ngày nay tác giả tôi cũng hết lòng
tùy hỷ và nguyện đời sau sẽ được gặp
nhau lại. Xả thân này thọ thân khác
nguyện không rời nhau, cho đến ngày
thành Phật, hằng làm bà con Phật pháp,
quyến thuộc từ bi.
Ngày nay nếu tôi lập ra Pháp Sám
này như giả dối; trí không sáng suốt, thân
trái với hạnh, khinh suất tỏ bày ý ấy. Thật
đáng lo sợ, đối với sự thấy nghe của
người.
Sức người hữu hạn mong manh,
công việc thì quan trọng rộng lớn, như
nước lửa trái nhau, nên tôi rất ngại
ngùng. Nếu không nương nhờ một
nguyên nhân cường tráng thì không thể
có kết quả thắng diệu. Thành thật, tôi
biết có sai lầm, nhưng lòng tôi không
quên việc thiện. Mong nhờ sức hộ niệm
của đại chúng đồng làm từ thân. Ngưỡng
xin đại chúng giáng đức xuống đạo tràng.
Thời giờ mau chóng thoạt vậy trôi
qua, nếu để duyên nghiệp lôi cuốn thì
khó gặp thắng hội.
Vậy tự mình nên phải cố gắng siêng
năng khóa lễ, lợi mình lợi người, chớ hiên
ngang bài xích, sau không hối hận kịp.
Pháp âm của Phật một phen lọt vào
tai, thì công đức phước báo vĩnh kiếp vẫn
còn hoài; một niệm thiện tâm, lợi ích cho
thân tâm mãi mãi.
Nếu người nào có chí hướng cương
quyết thì không có nguyện gì mà không
thành tựu viên mãn.
Đại chúng cùng nhau chí tâm đảnh
lễ quy y Thế gian Đại Từ Bi phụ:
Nam mô Di Lặc Phật.
Nam mô Thích Ca Mâu Ni Phật.
Nam mô Oai Đức Tịch Diệt Phật.
Nam mô Thọ Tướng Phật.
Nam mô Đa Thiên Phật.
Nam mô Tu Diệm Ma Phật.
Nam mô Thiên Ái Phật.
Nam mô Bảo Chúng Phật.
Nam mô Bảo Bộ Phật.
Nam mô Sư Tử Phận Phật.
Nam mô Cực Cao Hạnh Phật.
Nam mô Nhân Vương Phật.
Nam mô Thiện Ý Phật.
Nam mô Thế Minh Phật.
Nam mô Bảo Oai Đức Phật.
Nam mô Đức Thừa Phật.
Nam mô Giác Tưởng Phật.
Nam mô Hỷ Trang Nghiêm Phật.
Nam mô Hương Tế Phật.
Nam mô Hương Tượng Phật.
Nam mô Chúng Diệm Phật.
Nam mô Từ Tướng Phật.
Nam mô Diệu Hương Phật.
Nam mô Kiên Khải Phật.
Nam mô Oai Đức Mãnh Phật.
Nam mô Châu Khải Phật.
Nam mô Nhân Hiền Phật.
Nam mô Vô Biên Thân Bồ Tát.
Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát.
Lại quy y như vậy mười phương tận
hư không giới hết thảy Tam Bảo.

CHƯƠNG THỨ MƯỜI BA
TỔNG PHÁT ĐẠI NGUYỆN
Ngày nay đại chúng đồng nghiệp
trong đạo tràng lại cùng nhau nhờ công
đức nhân duyên sám hối, phát tâm,
nguyện cho mười phương tận hư không
giới hết thảy Thiên chủ, hết thảy chư
Thiên, quyến thuộc của chư Thiên;
nguyện cho Tiên chủ, hết thảy chơn Tiên,
quyến thuộc của chơn Tiên; nguyện cho
Phạm vương, Đế Thích, hộ thế Tứ thiên
vương, Thần vương, Thần tướng và quyến
thuộc của các vị ấy; nguyện cho các vị
thông minh chính trực, thiên địa hư
không, chủ thiện phạt ác, thủ hộ trì chú,
hết thảy Thần vương, hết thảy Thần
tướng và quyến thuộc của các vị ấy;
nguyện cho các vị Diệu Hóa Long vương,
Đầu Hóa Đề Long vương, Ngũ phương
Long vương, Long thần bát bộ, bát bộ
Thần vương, bát bộ Thần tướng và quyến
thuộc của các vị ấy; nguyện cho A tu la
vương, hết thảy Thần vương, hết thảy
Thần tướng và quyến thuộc của vị ấy,
nguyện cho nhân đạo, hết thảy nhân
vương, thần dân, tướng soái và quyến
thuộc của các vị ấy; lại nguyện cho mười
phương Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Thức xoa ma
na, Sa di, Sa di ni và quyến thuộc của các
vị ấy; nguyện cho Diêm La vương, Thái
Sơn phủ quân, ngũ đạo Đại thần, mười
tám ngục vương, hết thảy Thần vương,
hết thảy Thần tướng và quyến thuộc của
các vị ấy; lại nguyện cho hết thảy chúng
sanh trong đường địa ngục, hết thảy
chúng sanh trong đường ngạ quỷ, hết
thảy chúng sanh trong đường súc sinh và
quyến thuộc của mỗi loài ấy; lại nguyện
cho hết thảy chúng sanh hoặc lớn, hoặc
nhỏ, cùng tận đời vị lai trong mười
phương, tận hư không giới và quyến
thuộc của các chúng sanh ấy; lại nguyện
cho hết thảy chúng sanh đời sau này nếu
trái với lời đại nguyện hôm nay, tất cả
đều được trở lại trong bể đại nguyện này,
mỗi mỗi đều đầy đủ công đức trí huệ.
Những chúng sanh như vậy vô cùng
vô tận, ở trong ba cõi hay ngoài ba cõi,
nhiếp thuộc vào danh sắc và có Phật tánh
thì ngày nay đệ tử tên… mong nhờ sức đại
từ đại bi của mười phương tận hư không
giới hết thảy chư Phật, mong nhờ bổn thệ
nguyện lực, vô lượng vô tận trí huệ lực,
vô lượng vô tận công đức lực, vô lượng vô
tận tự tại thần thông lực, mong nhờ phù
hộ chúng sanh lực, an ủi chúng sanh lực,
tận chư Thiên chư Tiên lậu lực; nhiếp hóa
nhất thiết thiện thần lực, cứu bạt nhất
thiết địa ngục lực, tế độ nhất thiết ngạ
quỷ lực, độ thoát nhất thiết súc sinh lực
của chư Phật, chư Đại Bồ Tát và hết thảy
Thánh Hiền, mong nhờ những năng lực
ấy làm cho hết thảy chúng sanh đều được
như nguyện.
Ngày nay đệ tử tên... lại mong nhờ
năng lực của Từ Bi Đạo tràng, năng lực
quy y Tam Bảo, năng lực đoạn nghi sinh
tín, năng lực sám hối phát tâm, năng lực
giải oan thích kiết, năng lực tự khánh
hoan hỷ, năng lực hớn hở chí tâm, năng
lực phát nguyện hồi hướng thiện căn, làm
cho hết thảy chúng sanh đều được như
nguyện.
Ngày nay đệ tử chúng con... lại mong
nhờ năng lực đại từ tâm của bảy Đức
Phật, năng lực đại bi tâm của mười
phương chư Phật, năng lực diệt trừ phiền
não của ba mươi lăm Đức Phật, năng lực
hàng phục ma quân của năm mươi ba đức
Phật, năng lực độ sinh của một trăm bảy
mươi Đức Phật, năng lực nhiếp thọ chúng
sanh của một ngàn Đức Phật, năng lực
che chở chúng sanh của mười hai vị Bồ
Tát, năng lực lưu thông Sám pháp của Vô
Biên Thân Bồ Tát và của Quán Thế Âm Bồ
Tát; nguyện khiến cho tất cả chúng sanh
ở trong mười phương, ba cõi, sáu đường,
cùng tận đời vị lai, hoặc lớn hoặc nhỏ,
hoặc thăng hoặc giáng, nhiếp thuộc vào
danh sắc có Phật tánh, sau ngày sám hối
này rồi đều được thân như thân chư Phật,
chư đại Bồ Tát, thân có trí huệ rộng lớn,
không thể nghĩ bàn; thân có vô lượng
thần lực tự tại, thân lục độ chánh hướng
Bồ đề, thân tứ nhiếp, nhiếp thọ hết thảy
chúng sanh, thân đại bi diệt trừ tất cả tội
khổ, thân đại từ cho tất cả an vui, thân
công đức lợi ích cho tất cả, thân trí huệ
thuyết pháp không cùng tận, thân kim
cang vật không thể phá hoại, thân thanh
tịnh xa lìa sinh tử, thân phương tiện, hiện
thần lực tự tại, thân Bồ đề tùy hết thảy
thời gian mà hiện ra ba thân Bồ đề.
Nguyện cho tất cả chúng sanh trong
tứ sinh lục đạo đều được đầy đủ thân như
vậy, thành tựu hoàn toàn thân vô thượng
đại trí huệ của chư Phật.
Lại nguyện cho hết thảy chúng sanh
trong mười phương từ nay trở đi, sinh ra
nơi nào cũng như chư Phật và Bồ Tát đều
được miệng có công đức bất khả tư nghị;
miệng nói lời nhu nhuyến, làm an vui tất
cả chúng sanh; miệng như nước cam lồ,
làm mát mẻ hết thảy chúng sanh; miệng
không nói lời hư dối, nói lời chân thật,
miệng nói lời uyển chuyển đúng như sự
thật, dầu trong mộng cũng không có nói
lời hư dối; miệng được tôn trọng, Phạm
vương, Đế Thích, Tứ thiên vương đều
cung kỉnh tôn trọng; miệng nói pháp
thậm thâm, giải rõ pháp tánh; miệng nói
lời kiên cố, nói pháp bất thối; miệng nói
lời ngay thẳng, đầy đủ tài hùng biện;
miệng trang nghiêm, hay tùy thời, tùy
nghiệp mà thị hiện cùng khắp; miệng của
đấng Nhất thiết trí hay tùy theo tất cả
chúng sanh đáng độ thoát, thì độ thoát
ngay.
Nguyện cho tất cả chúng sanh trong
bốn loài, sáu đường đều được khẩu
nghiệp hoàn toàn thanh tịnh như chư
Phật và Bồ Tát.
Lại nguyện cho tất cả chúng sanh
trong mười phương, từ nay trở đi, sinh ra
nơi nào đều được như chư Phật và Bồ Tát;
có tâm đại sáng suốt, trí huệ không thể
nghĩ bàn; tâm thường nhàm chán phiền
não, xa lìa phiền não; tâm mãnh lợi, tâm
kiên cường, tâm kim cang, tâm bất thối,
tâm thanh tịnh, tâm minh liễu, tâm cầu
thiện, tâm trang nghiêm, tâm quảng đại,
có sức đại trí huệ, nghe được chánh pháp
liền tự hiểu rõ; tâm hiền từ đến với người,
đoạn trừ oán kết, thường biết sỉ nhục,
thường biết hổ thẹn, không chấp nhân
ngã, đồng xem nhau như thiện tri thức.
Tâm thấy có người tu bố thí, trì giới, nhẫn
nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ đều
sinh tâm hoan hỷ; oán thân bình đẳng,
tâm không kiêu mạn, không nói việc
thiện ác, xấu tốt của người; không tuyên
truyền bỉ thử hòa hiệp phân ly của người;
lời nói mềm mỏng không ác độc, tán thán
công đức của Phật; ưa học kinh điển cao
sâu, thương xót che chở chúng sanh như
thương mình không khác; thấy người làm
phước không phỉ báng; tâm nhân từ hòa
hiệp như các Thánh nhân, đồng với Bồ
Tát, thành bậc Chánh giác.

CHƯƠNG THỨ MƯỜI BỐN
LỄ PHẬT THẾ CÁC CÕI TRỜI
Ngày nay đại chúng đồng nghiệp
trong đạo tràng biết rằng chư Thiên, chư
Tiên, hết thảy Thiện thần đối với chúng
sanh có vô lượng ơn đức, không thể nghĩ
bàn; các ngài muốn cho chúng sanh an
vui mãi mãi, thương xót chúng sanh, ân
cần, phù hộ, chỉ biết làm lành cho chúng
sanh mà thôi.
Vì sao mà biết?
Vì theo sắc lệnh của Phật, thì Phật
dạy các vị: Đề Đầu Lại Tra Tứ Thiên
Vương nên có từ tâm ủng hộ người trì
kinh, khiến người nghe danh hiệu Đấng
Từ Bi, như quần thần hộ Thiên tử vậy.
- Lại sắc Hải Long Y Bạt La nên có từ
tâm ủng hộ người trì kinh như giữ tròng
mắt, thương con đỏ, ngày đêm sáu thời
không xa lìa.
- Lại sắc Diêm Bà La Sát Tử vô số
độc long và long nữ nên có từ tâm ủng hộ
người trì kinh, như quý đầu não không
dám động chạm.
- Lại sắc Tỳ Lưu Lặc Ca Vương nên
có từ tâm ủng hộ người trì kinh, như mẹ
hiền thương con lòng không chán, ngày
đêm ủng hộ, đứng ngồi như nhau.
- Lại sắc Nan Đà, Bạt Nan Đà, Ta Già
La Vương, Ưu Ba Đà, nên có từ tâm ủng
hộ người trì kinh, cung kính cúng dường,
đảnh lễ sát đất; cũng như chư Thiên thờ
Đế Thích; cũng như con thảo thờ cha mẹ.
Đạo tràng Từ Bi thí an vui, dạy
chúng sanh thân cận Phật pháp, đời sau ở
trước Phật nhập Tam muội quyết định
được pháp bất thối chuyển. Nếu nghe
được danh hiệu Đức Phật và của các ngài
Vô Biên và Quán Thế Âm thì ba chướng
đều tiêu trừ, ác nghiệp cũng hết, ngũ
nhãn đầy đủ, chứng quả Bồ đề. Các Thiên
vương, Thần vương thương tất cả và
thường hay ủng hộ, giúp oai thần.
Ngày nay đại chúng đồng nghiệp
trong đạo tràng, biết chư Thiên, Thần
Vương có ơn đức che chở như vậy mà
chúng sanh chưa từng phát tâm nhớ
tưởng báo đáp ơn đức ấy.
Cổ nhân còn có thể xả thân chỉ vì
nhớ ơn của một bữa cơm no lòng. Huống
gì chư Thiên, chư Thần, bát bộ Thần
vương, bát bộ Thần tướng đối với chúng
sanh có ơn đức thế ấy! Công đức ơn huệ
này rộng lớn vô cùng, không bờ bến.
Chúng con ngày nay sám hối phát
tâm v.v... đều nhớ ơn các vị Thiên vương
ấy thầm gia hộ thần lực giúp đỡ cho kẻ tu
hành, khiến thiện tâm được thành tựu.
Nếu các ngài không hộ trợ thì những
thiện tâm ấy đã thối chuyển sớm mất rồi.
Bởi thế nên các vị đại Bồ Tát Ma ha
tát thường tán thán thiện tri thức là
nhân duyên rất lớn, hay khiến chúng con
thẳng đến đạo tràng. Nếu không có thiện
tri thức chúng con làm sao thấy được chư
Phật, vậy nên dù tan xương nát thịt cũng
không thể báo đáp lòng từ rộng lớn ấy;
cũng không thể báo đáp thâm ơn cao cả
ấy.
Các vị đại Bồ Tát Ma ha tát còn tỏ lời
cám ơn như vậy, huống gì những hạng
dưới hàng Bồ Tát, thấp kém hơn mà
không biết lo báo ơn sao? Chúng con
cùng nhau hết sức vận tâm tri ân báo ân,
không thể bỏ qua sau ăn năn không kịp.
Như trong phần tự vui mừng ở đoạn
trước đã nói rằng: Được tái ngộ trùng
phùng là khó, khó được kết quả như ngày
nay, còn muốn đợi gì nữa mà không lo
báo ơn.
Như hội sám hối này mất rồi thì biết
hội nào gặp lại.
Vậy nên dõng mãnh hy sinh vì
người; sự thành có bại, xuân qua đông về,
thời gian biến chuyển, không chờ đợi một
ai. Nhân mạng vô thường, chỉ sống trong
hơi thở đâu có lâu dài! Nghĩ lại, một phen
này xa nhau, biết bao giờ gặp lại.
Mọi người nên tự nỗ lực, nhất tâm
tha thiết năm vóc sát đất, đầu thành
đảnh lễ, nguyện xin thay thế hết thảy
Thiên chủ, hết thảy chư Tiên, và quyến
thuộc của các vị ấy khắp mười phương,
tận hư không giới mà quy y kính lễ Thế
gian Đại Từ Bi phụ:
Nam mô Di Lặc Phật.
Nam mô Thích Ca Mâu Ni Phật.
Nam mô Thiện Thệ Nguyệt Phật.
Nam mô Phạm Tự Tại Vương Phật.
Nam mô Sư Tử Nguyệt Phật.
Nam mô Phước Oai Đức Phật.
Nam mô Chánh Chủ Phật.
Nam mô Vô Thắng Phật.
Nam mô Nhật Quang Phật.
Nam mô Bảo Danh Phật.
Nam mô Đại Tinh Tấn Phật.
Nam mô Sơn Quang Vương Phật.
Nam mô Thí Minh Phật.
Nam mô Điện Đức Phật.
Nam mô Đức Tụ Vương Phật.
Nam mô Cúng Dường Danh Phật.
Nam mô Pháp Tán Phật.
Nam mô Bảo Ngữ Phật.
Nam mô Cứu Mạng Phật.
Nam mô Thiện Giới Phật.
Nam mô Thiện Chúng Phật.
Nam mô Định Ý Phật.
Nam mô Hỷ Thắng Vương Phật.
Nam mô Sư Tử Quang Phật.
Nam mô Phá Hữu Ám Phật.
Nam mô Chiếu Minh Phật.
Nam mô Thượng Danh Phật.
Nam mô Vô Biên Thân Bồ Tát.
Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát.
Lại quy y như vậy mười phương tận
hư không giới hết thảy Tam Bảo.
Nguyện xin Tam Bảo rũ lòng từ bi,
đồng gia tâm nhiếp thọ; nguyện cho mười
phương tận hư không giới hết thảy Thiên
chủ, hết thảy chư Tiên và quyến thuộc
của các vị ấy, hiện tiền thường được
không huệ bình đẳng, được sức trí huệ
phương tiện khai thác vô lậu đạo; hạnh
nguyện thập địa đều được ngày càng sáng
tỏ; tâm tu lục độ, tứ đẳng, thực hành Bồ
Tát đạo, vào Phật hành xứ do tứ hoằng
thệ nguyện, không bỏ chúng sanh, biện
tài vô ngại, lạc thuyết vô cùng quyền xảo
hóa độ, lợi ích chúng sanh, đồng lên Pháp
vân, chứng quả thường trú.

CHƯƠNG THỨ MƯỜI LĂM
LỄ PHẬT THẾ CÁC VỊ TIÊN
Ngày nay đại chúng đồng nghiệp
trong đạo tràng đều nên chí tâm một
lòng tha thiết đầu thành đảnh lễ Tam
Bảo, nguyện vì hết thảy Tiên chủ, hết
thảy Chơn Tiên và quyến thuộc của Tiên,
cùng khắp mười phương tận hư không
giới mà quy mạng đảnh lễ Thế gian Đại
Từ Bi phụ:
Nam mô Di Lặc Phật.
Nam mô Thích Ca Mâu Ni Phật.
Nam mô Lợi Huệ Vương Phật
Nam mô Châu Nguyệt Quang Phật.
Nam mô Oai Quang Vương Phật
Nam mô Bất Phá Luận Phật.
Nam mô Quang Minh Vương Phật.
Nam mô Châu Luân Phật.
Nam mô Thế Sư Phật.
Nam mô Các Thủ Phật.
Nam mô Thiện Nguyệt Phật.
Nam mô Bảo Diệm Phật.
Nam mô La Hầu Thủ Phật.
Nam mô Lạc Bồ Đề Phật.
Nam mô Đẳng Quang Phật.
Nam mô Chí Tịch Diệt Phật.
Nam mô Thế Tối Diệu Phật.
Nam mô Vô Ưu Phật.
Nam mô Thập Thế Lực Phật.
Nam mô Hỷ Lực Vương Phật.
Nam mô Đức Thế Phật.
Nam mô Đại Thế Lực Phật.
Nam mô Công Đức Tạng Phật.
Nam mô Chơn Hạnh Phật.
Nam mô Thượng An Phật.
Nam mô Đề Sa Phật.
Nam mô Vô Biên Thân Bồ Tát.
Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát.
Lại quy y như vậy, mười phương tận
hư không giới hết thảy Tam Bảo.
Nguyện xin Tam Bảo rũ lòng từ bi,
đồng gia tâm nhiếp thọ, nguyện cho các
Tiên chủ, hết thảy Chơn Tiên và quyến
thuộc của Tiên đều được giải thoát,
khách trần phiền não đều được thanh
tịnh, hết các duyên chướng ngại, đều
được diệu sắc trạm nhiên như thân tướng
của Phật; tứ vô lượng tâm, lục Ba la mật
thường được hiện tiền, tứ vô ngại trí, lục
thần thông lực, đều được tự tại như ý; ra
vào, dạo chơi cảnh giới Bồ Tát, lên Pháp
vân địa, vào Kim cang tâm; dùng sức thần
thông bất khả tư nghị, trở lại độ thoát hết
thảy sáu đường chúng sanh.

CHƯƠNG THỨ MƯỜI SÁU
LỄ PHẬT THẾ CÁC VỊ TRỜI
PHẠM VƯƠNG, ĐẾ THÍCH v.v...
Ngày nay đại chúng đồng nghiệp
trong đạo tràng lại chí thành đảnh lễ Tam
Bảo, nguyện vì các vị trời Phạm vương,
trời Đế Thích, Hộ thế Tứ Thiên vương và
quyến thuộc của các vị trời ấy mà quy y
Thế gian Đại Từ Bi phụ:
Nam mô Di Lặc Phật.
Nam mô Thích Ca Mâu Ni Phật.
Nam mô Đại Quang Phật.
Nam mô Điện Minh Phật.
Nam mô Quảng Đức Phật.
Nam mô Trân Bảo Phật.
Nam mô Phước Đức Minh Phật.
Nam mô Tạo Khải Phật.
Nam mô Thành Thủ Phật.
Nam mô Thiện Hoa Phật.
Nam mô Tập Bảo Phật.
Nam mô Đại Hải Phật.
Nam mô Trì Địa Phật.
Nam mô Nghĩa Ý Phật.
Nam mô Thiện Tư Duy Phật.
Nam mô Đức Luân Phật.
Nam mô Bảo Quang Phật.
Nam mô Lợi Ích Phật.
Nam mô Thế Nguyệt Phật.
Nam mô Mỹ Âm Phật.
Nam mô Phạm Tướng Phật.
Nam mô Chúng Sư Thủ Phật.
Nam mô Sư Tử Hạnh Phật.
Nam mô Nan Thí Phật.
Nam mô Ứng Cúng Phật.
Nam mô Minh Oai Đức Phật.
Nam mô Đại Quang Vương Phật.
Nam mô Vô Biên Thân Bồ Tát.
Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát.
Lại quy y như vậy mười phương tận
hư không giới hết thảy Tam Bảo.
Nguyện xin Tam Bảo dũ lòng từ bi,
đồng gia tâm nhiếp thọ, nguyện cho các
vị Trời Phạm vương, Đế Thích, Hộ thế tứ
Thiên vương và quyến thuộc của các vị ấy
được các pháp lục độ, tứ đẳng, ngày càng
sáng tỏ, tứ vô ngại biện lạc thuyết vô
cùng, được bát tự tại, đủ lục thần thông
tam muội và tổng trì móng tâm liền có,
từ bi bủa khắp, bách phước trang nghiêm,
vạn thiện viên mãn, tam đạt sáng suốt,
ngũ nhãn hoàn toàn, làm Chuyển luân
pháp vương nhiếp hóa lục đạo chúng
sinh.
TỪ BI ÐẠO TRÀNG SÁM PHÁP
QUYỂN THỨ BẢY
HẾT

CUỐI QUYỂN BẢY
Lương Hoàng Bảo Sám,
Vạn đức hồng danh,
Linh văn thất quyển tối hoằng thâm,
Tự tự miễn tai truân,
Đảnh lễ Phật danh,
Tiêu tai bảo an ninh.
Nam Mô Viễn Hành Địa Bồ Tát Ma Ha
Tát. (3 lần).









Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét